Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Đi trên xe ngựa chiều hôm. Những vệt bánh lún.
Con đường đi qua một trang trại ở thung lũng bên hồ.
Các mái nhà nép nhau, một tấm lanh trên đồng cỏ.
Lưới đang khô và khói bốc ra từ ống khói.
Thật yên tĩnh. Họ là ai? Những kẻ được cứu hay bị nguyền,
Ngồi ăn tối dưới bức vẽ các tông đồ của Chúa?
Và trong phòng mình Tôma Aquinô đã viết về họ
Không ngừng, như một hình phạt, chắc chắn. Ông đã quá thiên thần.
Có lẽ tôi cũng viết như một hình phạt? Tôi muốn cúi đầu
Trước Ánh sáng, trước Bệ hạ, chỉ thế, không hơn.
Và ở đây chỉ là những con người, phong tục, nhà cửa,
Một gia đình bơ vơ, một năm trên lịch.
Mục tiêu của một nghệ sĩ: được giải thoát khỏi những niềm vui và nỗi buồn mãnh liệt anh ta đã trải qua quá đủ trong cuộc đời trước. Ở bữa sáng không nghĩ gì ngoài việc đến xưởng nơi những tấm vải đã căng lên sẵn sàng. Anh làm việc với vài tấm vải một lúc, tò mò trước một sự ngạc nhiên xuất hiện từ các chuyển động của chiếc cọ. Anh biết mình tìm gì, vươn tới điều gì. Và đó là toàn bộ hiện thực, một chi tiết từng nhìn thấy nhưng liên tục vuột đi, bản chất không tên của nó chưa một ai chạm tới. Thực chất nó có nghĩa là tái tạo cây cối, phong cảnh, con người, động vật, nhưng luôn luôn với niềm hy vọng rằng chiếc cọ sẽ tìm được một dấu vết phù hợp.
Chiếc cọ cũng là cây bút. Có lẽ một số nỗ lực thành công hơn một số khác, một số không bằng. Sao lại là ngôi nhà bên hồ và với nó, Tôma Aquinô? Ông nói trước khi chết: “Mọi thứ tôi viết đối với tôi đều như là rơm rạ.” Điều đó nên hiểu là sự chối bỏ một tòa nhà khổng lồ được tỉ mỉ dựng lên bằng các tam đoạn luận, bởi nó quá con người, và như thế không hơn một màn sương mù, không gì khi chúng ta nhìn lại, đứng trước điều cuối cùng, gần như trước ngai vàng cao nhất. Nhưng nào ai biết chúng ta có được phép từ bỏ những hình dạng nhất thời, thoáng qua, nhân danh một ham muốn tuyệt đối hay không? Hồi còn trẻ tôi đã không ngờ rằng mình sẽ bị cuốn hút bởi con người, sự tồn tại hằng ngày của họ trong thời gian, bởi ngày hôm đó, bởi năm đó – nó không báo trước điều gì tốt cho ngôi nhà bên hồ. Không, chúng ta không thể nhìn thẳng vào mặt trời. Mặt khác chúng ta cũng không nên bắt chước các vị khách trong cung điện hoàng gia trong ngụ ngôn của Baal Shem Tov, những người đã quên mất tại sao họ đến đó.
MỘT NGỤ NGÔN HASIDIC
Từ các xứ sở, các tỉnh, các làng quê thành phố khác nhau
Chúng tôi được mời đến cung điện của nhà vua
Và sững sờ trước những ao, những vườn
Và dàn hợp xướng của chim chóc và cỏ cây các loại.
Lang thang qua các phòng chúng tôi thấy những thứ kỳ diệu,
Vàng, bạc, ngọc trai và đá quý.
Ngày và tuần là quá ít để nhìn ngắm chúng.
Trong khi các vị khách tản mát khắp cung điện
Tôi cứng đầu đi tìm căn phòng của nhà vua
Và được dẫn vào. Bất thình lình tất cả những thứ đó
Biến mất. Chúng chỉ là do Ngài, đấng Soi Sáng,
Bậc thầy của Ảo ảnh gọi lên.
Berkeley, 1985
Czesław Miłosz, “In a Buggy at Dusk,” The Collected Poems, 1931-1987, trans. author and Robert Hass (Ecco Press, 1988).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.