Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Một lần nữa hoa diên vĩ nở.
Khi chúng nở hoa trở lại, thời đại của tôi sẽ qua.
Ban sớm đại dương được bao phủ trong sương.
Trước cánh cửa mở ra vườn tôi bận bịu với việc không nhớ.
Song tôi không thể quên ông, triết gia của nỗi tuyệt vọng
Người nghi ngờ sự tốt lành của Tạo hóa.
Tôi nhìn thấy một con đường rợp bóng bạch dương giữa Minsk và Wilno, với một vết rãnh ngoằn ngoèo ở giữa.
Lúc bấy giờ chưa có ô tô, đường nhựa.
Một cỗ xe ngựa được phái ra ga tàu lửa đón khách.
Có thể ông đã đón tiếp Vladimir Solovyov trong trang viên của mình và lắng nghe ông ta nói về sự hòa giải giữa Công giáo và Chính thống giáo.
Họ bàn luận xem liệu những con vịt trên ao trong trang viên có thể được cứu rỗi hay không.
Liệu một con ruồi hay một con kiến có được cứu chuộc.
Ai đặt ra trên trái đất này quy luật đau khổ cho các sinh vật sống?
Đến hôm nay tôi vẫn giữ những lời này của ông:
“Theo năm tháng, càng đi sâu vào cuộc đời và thế giới, tôi càng nhận ra một cách rõ ràng và đau đớn rằng thế giới này, nhìn một cách tổng thể, hỗn loạn và phi lý trí, không phải, như chúng ta được dạy, là công trình của lý trí: nó không đến từ bàn tay của Chúa.”
Ở đây ông đi bộ đến lớp trên các con phố Krakow.
Với ông là những người cùng thời: tuyn, nhung, sa tanh
Chạm vào thân mình phụ nữ như những cái cuống mỏng
Của hệ thực vật lạ mắt của thời trang Art Nouveau.
Những ánh mắt và những tiếng gọi từ trong màn đêm.
Trong một trận chiến vũ trụ thanh kiếm của các thiên thần lóe sáng.
Hoàng tử Nổi loạn tiến lên, những đầy tớ của ánh sáng rút lui.
Sự tàn ác, đá,
Còn cách nào để giải thích? Mặc dù ông, một giáo sư,
Không thể nói công khai rằng ông tin vào thế giới của quỷ.
Một mình trong lễ hội của màu sắc và đụng chạm.
“Không có Chúa – cả thiên nhiên lẫn lịch sử đồng thanh kêu lên. Nhưng giọng ấy bị chìm trong sự hòa hợp của các thánh vịnh và thánh ca, trong lời tuyên xưng đến từ trong sâu thẳm của tinh thần con người, rằng tâm hồn của con người mà không có Chúa thì cũng giống như ‘trái đất mà không có nước.’ Có Chúa. Chỉ có sự thật về sự tồn tại của Chúa là nằm ngoài tầm nắm bắt của suy nghĩ bận rộn với thế giới bên ngoài. Le monde est irrationnel. Dieu est un miracle.”
Chỉ có những tiếng chuông,
Chỉ có quầng sáng ửng của một mặt nhật,
Những tiếng người phàm tuyên xưng vinh quang,
Những sàn nhà ở dòng Đa Minh và dòng Phan Sinh
Bị bào mòn bởi bàn chân nhiều thế hệ
Bảo vệ chúng ta. Ngay cả khi ảo ảnh
Gắn kết chúng ta trong niềm tin vào sự sống vĩnh cửu,
Chúng ta, bụi, tạ ơn vì phép màu của bụi trung thành.
Tôn ông, tôi đã đến gần ông một lần, một cậu bé, trên những bậc thềm của thư viện dưới tòa tháp Poczobutt sơn các biểu tượng của cung Hoàng đạo.
Trong một thành phố mà những kỵ sĩ Ba Lan chiếm lại được từ những người Bolshevik, ông đã đợi, ý thức về “cái kết đang đến.”
Người ta có thể nhìn thấy ông đi qua trên một cỗ xe ngựa, tiếng vó đôi ngựa lộc cộc trên mặt đường gồ ghề, ông không bao giờ chấp nhận ô tô hay điện thoại.
Với những điệu nhảy của nó, tử đinh hương và anh đào dại nở rộ, với những vòng hoa trên sông, thành phố đang sụp đổ.
Ông chết đúng lúc, bạn bè thì thầm, lắc đầu: “Ông ta thật may mắn!”
Lời tiên tri đã ứng nghiệm, bất cứ gì tồn tại đều chìm xuống, chỉ còn những ngọn tháp nhà thờ đua lên trên vực thẳm.
Có lẽ tôi đã giống cái người mà không có nơi trú ẩn trước khi bị đưa đến trại lao động, trốn trong tháp chuông nhà thờ Thánh Gioan và sống sót.
Một con nai cái với hai con nai con mới sinh đã chọn ở lại trên bãi cỏ ngoài cửa sổ.
Chuỗi ra đời và chết đi không thể nào ngăn lại, tôn ông.
Tôi đã rèn mình một thời gian dài trong nghệ thuật kiềm chế.
Tinh ranh hơn ông, tôi đã học được thế kỷ của mình, làm như mình biết một cách quên đi nỗi đau đớn.
Czesław Miłosz, “Zdziechowski,” New and Collected Poems, 1931-2001 (Ecco Press, 2001).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.