Rainer Maria Rilke là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất viết bằng tiếng Đức của thế kỷ 20. Sinh năm 1875 ở Praha, ông xuất bản tập thơ đầu, Leben und Lieder, năm 1894. Phần lớn cuộc đời ông sống chu du ở các nước châu Âu, với Paris là nơi hoạt động chính trước khi ông phải ở lại Munich khi Thế chiến I nổ ra. Năm 1919 ông đến Thụy Sĩ, hoàn thành hai tác phẩm cuối, Die Sonette an Orpheus (1922) và Duineser Elegien (1923), trước khi qua đời năm 1926.
Nấn ná, ngay cả với thứ thân thuộc nhất, chúng ta
không được phép; từ những hình ảnh đã hoàn thành
tinh thần đổ xuống những cái bỗng cần được lấp đầy; hồ
chỉ có trong vĩnh hằng. Ở đây rơi là
tốt nhất. Từ cảm xúc đã thuần thục rơi xuống
cái cảm xúc đoán biết, rồi xa hơn.
Đối với ngài, kẻ làm phép oai phong, hình ảnh thúc bách
là một cuộc đời toàn bộ, khi ngài thốt nó ra:
dòng kẻ khép lại như số phận, cái chết có mặt
ngay cả trong dòng kẻ nhẹ nhất, và ngài bước vào; song
vị thần đi trước ngài đã dẫn ngài ra khỏi đó.
Hỡi tinh thần phiêu bạc, phiêu bạc hơn tất thảy! Làm sao tất cả họ
đều ngự êm ái trong các bài thơ ấm, và ở lại lâu
trong những so sánh hẹp. Dự phần. Chỉ mình ngài
là đi như trăng. Và bên dưới, cảnh quan đêm của ngài
sáng lên và tối đi, cái cảnh quan khiếp hãi thiêng liêng
mà ngài cảm thấy trong những sự chia ly. Không ai
trao nó đi cao thượng hơn, trả lại nó cho cái Toàn thể
trọn vẹn hơn, không cần đến hơn. Cũng như thế
ngài đã chơi trong những năm không tính nữa, thiêng liêng,
với hạnh phúc bất tận, cứ như nó không ở bên trong, bày
chẳng thuộc về ai, khắp trên đám cỏ
mềm mại của đất, bị những đứa con thần bỏ rơi.
Ôi, cái những kẻ cao cả nhất muốn, không ham ngài đã dựng
gạch chồng lên gạch: nó đứng. Song sự sụp đổ của nó
cũng không làm ngài hoang mang.
Cớ sao, khi đã tồn tại một đời vĩnh hằng như thế, chúng ta
vẫn ngờ vực cái trần thế? Thay vì từ những thứ nhất thời
cung kính học những cảm xúc cho một
sự đổ nghiêng nào, tương lai trong không gian?
Rainer Maria Rilke, “An Hölderlin” (1914).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.