Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Hằng năm ông lại nghĩ về những gì mình đã được xá cho, và đó là đủ để làm ông hạnh phúc. Bởi vì khi vượt biên trái phép, ông có thể đã phải chịu cái điều rơi xuống đầu một người bạn cùng lớp trường Trung học Sigismund Augustus với ông, người sẽ trải qua mười sáu năm trong các gulag. Quả thật, tưởng tượng về số phận của những người bạn Vilnius trong các trại lao động và các hầm mỏ ở Vorkuta đã luôn là một mô típ xuyên suốt cuộc đời dài của ông, dẫu cho tác giả các tiểu sử về ông không hề hay biết. Ông đồng nhất mình với các tù nhân của đêm địa cực, từ đó mà có lòng biết ơn sâu sắc đối với mỗi bình minh, mỗi lát bánh mì. Song chính bởi điều này mà ông mang trong mình một cái dằm oán giận đối với cái gọi là phương Tây. Ông không thể tha thứ không chỉ giới trí thức của họ, những kẻ luôn tìm kiếm một chế độ bạo quyền hoàn hảo, miễn là ở đâu đó xa xôi, mà cả công dân các đất nước ấy, đoàn kết bởi chung một sự từ chối biết.
Ông băn khoăn, nên làm gì với cái dằm này. Trung thực nhất sẽ là tự mình gánh vác nhiệm vụ tuyên bố sự thật. Đáng tiếc thay, Đế quốc Dối trá rất hùng mạnh, và những kẻ ngây thơ tìm kiếm sự thật chẳng thể làm gì được nó, bởi những tiết lộ kinh hoàng của họ bị coi là hoang tưởng của những kẻ điên. Cần một chiến thuật tinh ranh hơn. Một số người mang dằm sẽ quyết định phục vụ Đế quốc, miễn sao trả thù được các chính trị gia vô lại phương Tây. Tuy nhiên, sau nhiều do dự, ông chọn một cách khác. Qua năm tháng, ông học cách làm như mình, đúng như một kẻ sùng bái trí tuệ, có học thức, tiến bộ, khoan dung, dễ chấp nhận, đến khi ông trở thành một trong số họ, những kẻ soi sáng của phương Tây, ngay cả khi ông mang cái biết của ông mà ông sẽ không tiết lộ. Và khi các cuốn sách của ông giành được tiếng tăm và được đem ra phân tích, không một nhà phê bình nào đoán được đằng sau các suy tư triết học của chúng là hình ảnh những nỗi đau khổ kêu gào đòi báo thù với trời xanh. Chỉ có ký ức của các tù nhân Vorkuta mới có thể đưa ra một thước đo không thể lung lay để phân biệt thiện ác, và kẻ nào áp dụng cái thước đo đó, kẻ đó với nhà nước quái vật đều nguy hiểm hơn cả các trung đoàn và các đạo quân.
Czesław Miłosz, “Carrying a Splinter,” Road-side Dog, trans. author and Robert Hass (Farrar, Straus and Giroux, 1998).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.