Jorge Luis Borges (1899–1986) là nhà văn và nhà thơ người Argentina, một nhân vật chủ chốt trong nền văn chương tiếng Tây Ban Nha với những tác phẩm đã trở thành điển phạm của châu Mỹ Latin trong thế kỷ XX. Sách của ông bắt đầu được dịch và xuất bản rộng rãi ở Mỹ và châu Âu sau khi ông được trao giải Prix International cùng Samuel Beckett năm 1961. Danh tiếng quốc tế của ông cũng được củng cố bởi các giải de Cervantes năm 1969 và giải Jerusalem năm 1971, bên cạnh sự bùng nổ của các nhà văn Mỹ Latin thuộc thế hệ sau trong những năm 1960 và 1970.
Chúng ta là dòng sông ông gọi lên, Hêraclít.
Chúng ta là thời gian. Dòng chảy vô hình của nó
mang theo những con sư tử và núi non,
tình yêu than khóc, tro tàn của khoái lạc,
niềm hy vọng âm ỉ bất tận,
tên tuổi vĩ đại của các đế chế đã hóa thành bụi,
các dòng thơ hexameter của người Hy Lạp và La Mã,
một vùng biển u ám dưới sức mạnh của bình minh,
giấc ngủ, sự nếm thử cái chết,
các vũ khí và người chiến binh, những tượng đài,
hai khuôn mặt không biết nhau của Janus,
những mê cung ngà voi được dệt nên
bởi các quân cờ trên bàn cờ,
bàn tay đỏ có thể nhuộm máu các biển cả
của Macbeth, sự lao động bí mật
của những chiếc đồng hồ trong bóng tối,
một tấm gương bất tận soi mình
vào một tấm gương khác mà chẳng ai thấy chúng,
những tấm thép, chữ viết Gothic,
một thanh lưu huỳnh trong tủ,
những tiếng chuông nặng nề của mất ngủ,
những bình minh, những hoàng hôn và chạng vạng,
tiếng vọng, sóng ngầm, cát, địa y, các giấc mộng.
Tôi chẳng là gì ngoài những hình ảnh ấy
mà sự ngẫu nhiên xáo trộn, sự buồn chán gọi tên.
Với chúng, dẫu cho tôi mù lòa và tan vỡ,
tôi phải làm nên bài thơ không thể nào bị hủy hoại,
và (đó là nhiệm vụ của tôi) tự cứu lấy mình.
Jorge Luis Borges, “El hacedor,” La cifra (Emecé Editores, 1981).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.