Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"

“Gửi Allen Ginsberg” – Czesław Miłosz

Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.

Gửi Allen Ginsberg

Allen, anh, thiện nhân, nhà thơ vĩ đại của thế kỷ giết người, người kiên trì trong sự điên rồ đã đạt đến sự khôn ngoan.

Tôi thú nhận với anh, cuộc đời tôi không như tôi mong muốn.

Và giờ, đã trôi đi, nó nằm như lốp bỏ bên đường.

Nó không khác cuộc đời hàng triệu người mà anh nổi loạn khỏi nhân danh thơ và một vị Chúa toàn tại.

Cuộc đời tuân theo các phong tục, biết rằng chúng thật ngớ ngẩn, và sự cần thiết phải thức dậy mỗi sáng và đi làm.

Với những ham muốn không được thỏa mãn, ngay cả cái ham muốn không được thỏa mãn là hét lên và đập đầu vào tường, lặp đi lặp lại với chính mình lời răn “Không được.”

Không được nuông chiều bản thân, không được cho phép mình nhàn rỗi, không được nghĩ về quá khứ, tìm kiếm sự giúp đỡ của một phòng khám hay bác sĩ tâm thần.

Không phải vì bổn phận mà còn vì nỗi sợ giải phóng các thế lực sẽ làm lộ ra mình là một thằng hề.

Và tôi sống ở nước Mỹ của Moloch, tóc ngắn, râu cạo, cà vạt thắt, uống bourbon trước TV mỗi tối.

Những tên lùn quái quỷ của cám dộ nhào lộn trong tôi, tôi nhận thức được sự có mặt của chúng và tôi nhún vai: Nó sẽ trôi đi cùng cuộc đời.

Nỗi khiếp sợ rình rập ở gần, tôi phải giả vờ như nó chưa từng tồn tại, như tôi sống chung với những người khác trong một sự bình thường đầy may mắn.

Sự rèn luyện tầm nhìn như vậy suy cho cùng là có thể mà không cần đến ma túy, không cần đến cái tai cắt lìa của van Gogh, tình anh em của những bộ óc sáng láng nhất đằng sau song sắt trại tâm thần.

Tôi là một công cụ, tôi lắng nghe, lựa ra những giọng nói từ một dàn hợp xướng vô nghĩa, dịch chúng thành những câu cú rõ ràng có chấm có phẩy.

Như thể sự nghèo nàn của số phận tôi là cần thiết để hệ thực vật của ký ức tôi có thể tươi tốt, một ngôi nhà cho hơi thở và cho sự hiện diện của những người đã mất.

Tôi ghen tị với lòng can đảm của anh, lòng can đảm của một sự thách thức tuyệt đối, những lời bốc lửa, những nguyền rủa độc địa của một nhà tiên tri.

Nụ cười bẽn lẽn của những người theo chủ nghĩa mỉa mai được lưu giữ trong các viện bảo tàng, không phải như nghệ thuật trường tồn mà một vật lưu niệm của sự không tin.

Trong khi tiếng hú báng bổ của anh tiếp tục vang vọng trên một sa mạc neon, nơi bộ tộc loài người phải chịu số phận vô thực đang lang thang.

Walt Whitman lắng nghe và nói: “Phải, đấy chính là cách nói để dẫn dắt những người đàn ông và đàn bà đến nơi mà mọi thứ đều được thỏa mãn. Nơi họ sẽ sống trong một khoảnh khắc biến thể.”

Và những sáo ngôn báo chí của anh, bộ râu và tràng hạt của anh, bộ cánh nổi loạn của một thời đại khác sẽ được tha thứ.

Bởi chúng ta không tìm kiếm những gì hoàn hảo, chúng ta tìm kiếm những gì sót lại từ sự phấn đấu không ngừng.

Ghi nhớ bao phần nó nợ một sự may mắn, một sự trùng hợp giữa những ngôn từ và sự vật, một buổi sáng đầy mây trắng mà sau này nhìn lại cứ như là tất yếu.

Tôi không đòi hỏi ở anh một công trình hoành tráng mọc lên như một thánh đường Trung đại trên đồng bằng nước Pháp.

Chính tôi cũng đã hy vọng như vậy, nhưng lòng nửa biết rằng cái phi thường hóa thành cái bình thường.

Rằng trong sự pha trộn giữa các tôn giáo và ngôn ngữ của hành tinh, chúng ta không được nhớ đến nhiều hơn những người phát minh ra guồng quay tơ hay bóng bán dẫn.

Hãy nhận lấy lời tặng này từ tôi, một người rất khác, nhưng cùng trong một sự phụng sự không tên.

Vì thiếu một cách gọi hay hơn, hãy cứ nói đó là việc làm thơ.

Czesław Miłosz, “To Allen Ginsberg,” Facing the River, trans. author and Robert Hass (Ecco Press, 1995).

Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Leave a comment

Information

This entry was posted on January 29, 2024 by in Thơ and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

Design a site like this with WordPress.com
Get started