Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"

“Thư gửi một người bạn La Mã” – Joseph Brodsky

Joseph Brodsky sinh năm 1940 ở Leningrad và định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1972 sau khi bị chính quyền Liên Xô trục xuất. Ông được trao giải phê bình của Hiệp hội Nhà Phê bình Sách Quốc gia Mỹ năm 1986 và giải Nobel văn chương năm 1987, sau đó được bổ nhiệm làm Poet Laureate của Hoa Kỳ từ năm 1991 đến năm 1992. Ông qua đời ở New York City năm 1996.

Thư gửi một người bạn La Mã

I

Giờ đây trời gió, những ngọn sóng chất chồng lên nhau.
        Thu đang đến, mọi thứ sẽ đổi thay trong quận.
Sự chuyển dịch trong những màu sắc kia đối với tôi cảm động hơn,
        Postumus, sự thay đổi trong trang phục của một cô bạn.

Ở mức độ nhất định một cô gái có thể thỏa mãn anh –
        miễn là không đi xa hơn khuỷu tay hay đầu gối.
Cái vẻ đẹp không thân thể mới vui sướng hơn thế biết bao:
        người ta không thể ôm nhau, không thể phản bội!

II

Postumus, tôi gửi các cuốn sách này cho anh.
        Thủ đô sao? Vẫn giường êm? Không tài nào chợp mắt?
Caesar thế nào? Ông ta làm gì rồi? Vẫn âm mưu?
        Vẫn âm mưu, có lẽ, âm mưu và hám đớp.

Tôi đang ngồi trong vườn, những ngọn đèn sáng.
        Không bạn gái, không kẻ hầu, người quen.
Thay vì những người yếu của thế gian và kẻ mạnh –
        chỉ có tiếng của côn trùng râm ran.

III

Đây là nơi an nghỉ một thương nhân châu Á. Hắn
        nhanh nhạy, chăm chỉ, nhưng không có gì khác thường.
Chết rất nhanh, đột tử, sốt. Để buôn bán
        hắn đến đây, không phải để nằm lại dọc đường.

Cạnh hắn là một lính lê dương, dưới thạch anh thô ráp.
        Trong chiến trận đế quốc ông ta đã tôn vinh.
Đáng lẽ đã bị giết bao lần! Nhưng ông ta già mới chết.
        Ngay cả ở đây, Postumus, luật lệ cũng lạ lùng.

IV

Hãy nói thật, gà thì không phải chim, Postumus,
        nhưng những kẻ óc gà thôi cũng mang đủ nỗi khốn cùng.
Nếu người ta mang số phận phải sinh ra ở Đế quốc
        thì tốt hơn là sống gần biển, ở một tỉnh biên cương.

Xa khỏi Caesar, xa khỏi những trận bão tuyết.
        Không cần phải xu nịnh, hèn nhát hay vội vàng.
Anh nói, mọi tên thống đốc tỉnh đều là những kẻ cắp?
        So với kẻ hút máu, kẻ cắp còn đáng quý hơn.

V

Cùng cô đợi cơn mưa này qua đi, hetaera,
        ta đồng ý, nhưng cô đừng ngã giá:
lấy những đồng sesterce khỏi tấm thân bọc cho cô,
        không khác đòi tấm ngói lợp khỏi mái.

Cô nói gì, mái dột ư? Nhưng vũng nước đâu cơ?
        Chưa bao giờ có chuyện tôi để lại một vũng ướt.
Nếu sau cô tìm được một tấm chồng cho cô,
        đích thân hắn sẽ vãi ra khắp nệm.

VI

Vậy là đã hơn nửa đời người chúng ta sống.
        Như ở quán rượu một gã nô lệ già nói với tôi:
“Chúng ta, khi nhìn lại, chỉ thấy toàn tàn tích.”
        Một quan điểm man rợ, nhưng cũng đúng thôi.

Từ trên núi, tôi mang về một bó hoa lớn.
        Tôi sẽ tìm một cái bình to và đổ nước vào…
Ở Libya thế nào, Postumus của tôi, hay ở đâu nhỉ?
        Thật chúng ta vẫn chiến đấu hay sao?

VII

Anh nhớ không, Postumus, thống đốc có một cô em gái?
        Gầy, nhưng khá múp máp đôi chân.
Anh đã ngủ với cô ta… Giờ, cô đã thành một nữ tư tế.
        Nữ tư tế, Postumus, giao tiếp với các vị thần.

Đến thăm tôi, chúng ta sẽ uống rượu, ăn bánh.
        Hoặc là mận. Hãy cho tôi biết tin.
Tôi sẽ dọn chỗ cho anh trong vườn, dưới bầu trời trong vắt
        và các chòm sao, tôi sẽ chỉ cho anh biết tên.

VIII

Chẳng mấy chốc mà người bạn thích cộng của anh, Postumus,
        sẽ trả hết món nợ lâu nay với phép trừ.
Hãy lấy tiền tiết kiệm của tôi ở dưới gối, không nhiều lắm,
        nhưng cũng đủ phí mai táng nếu không dư.

Anh hãy cưỡi con ngựa ô của anh như lúc trước
        đến Nhà các Hetaera dưới bức tường của thành phố chúng ta.
Trả cho họ số tiền mà mỗi lần yêu tôi họ kiếm được
        để cùng giá đó họ khóc cho sự ra đi của một ông già.

IX

Bụi nguyệt quế xanh chừng như run rẩy.
        Cửa mở hé, cửa sổ bụi bám đầy,
một chiếc ghế hoang và một chiếc giường bỏ.
        Vải, ngập đầy nắng giữa ngày.

Pontus rì rào sau hàng rào thông đen.
        Tàu ai đó đang vật lộn với gió ngoài mũi đất.
Trên băng ghế khô cong một cuốn sách của Pliny cha.
        Một con hoét líu lo trên mái tóc cây bách.

Joseph Brodsky, “Письма римскому другу” (1972).

Nguyễn Huy Hoàng & Phạm Hà Anh dịch.

Leave a comment

Information

This entry was posted on July 20, 2024 by in Thơ and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

Design a site like this with WordPress.com
Get started