Paul Celan (1920–1970) là nhà thơ, dịch giả người Rumani. Viết chủ yếu bằng tiếng Đức, ông trở thành một trong những nhà thơ lớn nhất thời hậu Thế chiến thứ II của ngôn ngữ này.
Miện ra,
nhổ ra vào trong đêm.
Dưới những là
sao! Tuyền
bạc-búa-tim đóng-xám. Và
tóc Berinice, cũng ở đây, – tôi đã bện,
tôi đã gỡ,
tôi bện, gỡ.
Tôi bện.
Khe xanh, vào người
tôi đẩy vàng. Với cả nó, thứ
bị phung phí vào những đĩ và điếm,
tôi đến và tôi đến. Tới người,
người yêu dấu.
Với cả những lời nguyền và lời cầu nguyện. Với cả mỗi
chiếc chày rù rì
trên tôi: chúng cũng chảy thành
một, chúng cũng
được gói một cách pha lích tới người,
bó và từ.
Với những cái tên, sũng
từ mỗi cuộc lưu đày.
Với những cái tên và những hạt giống,
với những cái tên, nhúng
vào tất cả
những cốc, chứa đầy máu hoàng gia
của người, con người, – vào tất cả
những cốc của bông
hồng-ghetto vĩ đại, từ nó
người nhìn chúng tôi, bất tử từ rất nhiều
cái chết chết trên những con đường buổi sáng.
(Và chúng ta đã hát Warszawianka.
Bằng các môi mọc sậy, Petrarca.
Vào các tai lãnh nguyên, Petrarca.)
Và một trái đất trỗi dậy, của chúng ta,
trái đất này.
Và chúng ta sẽ gửi
không ai của chúng ta xuống
dưới mi,
Babel.
Paul Celan, “Hinausgekrönt,” Die Niemandsrose (S. Fischer Verlag, 1963).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.