Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"

Truyện ngắn: “Anh ta muốn có sự tha thứ từ chị ta” – Isaac Bashevis Singer

Isaac Bashevis Singer sinh năm 1904 ở một ngôi làng gần Warsaw, Ba Lan, và lớn lên trong khu Do Thái nói tiếng Yiddish của thành phố. Dù ban đầu cân nhắc trở thành thầy đạo như cha mình, Singer đã từ bỏ nghiên cứu tôn giáo trong những năm tuổi hai mươi để theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 1935, khi mối đe dọa của Đức Quốc xã ngày càng đáng ngại, Singer chuyển đến Mỹ. Tuy xuất bản nhiều tiểu thuyết, sách thiếu nhi, hồi ký, và tiểu luận, ông nổi tiếng nhất với tư cách nhà văn viết truyện ngắn. Ông được trao giải Sách Quốc gia Mỹ cho tác phẩm hư cấu năm 1974 và giải Nobel văn chương năm 1978, và qua đời ở Florida năm 1991.

Anh ta muốn có sự tha thứ từ chị ta

Cánh cửa mở ra và bước vào phòng một người đàn ông trẻ điệu đàng, không râu, đội mũ ống và mặc áo khoác ngắn. Trông anh ta chừng cuối ba mươi. Ngoại hình và cách ăn mặc, thậm chí cả điệu bộ của anh ta, toát lên vẻ quan trọng – của một bác sĩ, một luật sư, ít cũng một kế toán. Đặc biệt oai là cái kính kẹp mũi của anh ta, nằm thấp trên sống mũi và được buộc vào khuyết ve áo bằng một sợi dây mỏng màu đen.

“Ái chà, có việc gì thế?” cha tôi hỏi.

Người đàn ông trẻ nói nửa ngại ngùng nửa ngập ngừng. Anh ta bắt đầu bằng những lời này: “Rabbi, ngài sẽ cười cho mà xem…”

Hóa ra là đâu đó mười hai năm trước, người đàn ông trẻ này đã là vị hôn phu của một cô gái Warsaw danh giá. Rồi anh ta gặp một cô gái khác và kết hôn với cô ta. Người ta đã báo trước anh ta là muốn hủy hôn thì cần phải có một lá thư tha thứ từ phía bên kia. Nhưng anh ta yêu cô vợ mới và ngại không muốn quay lại gặp người đầu để hỏi xin lá thư. Anh ta rất ngại trước nhà gái. Tóm lại là anh ta bỏ đi sống với cô thứ hai, chuyển đến một thành phố khác và hy vọng thời gian rồi sẽ làm suôn sẻ mọi chuyện. Một cuộc hôn nhân tan vỡ, có gì đâu mà to tát!

Thế nhưng vận rủi đã đeo bám người đàn ông trẻ. Anh ta mở một cửa tiệm, nhưng thất bại. Anh ta dựng một nhà máy: chuyện đó cũng không thành. Vợ anh ta đẻ một đứa, rồi đứa thứ hai, rồi đứa thứ ba, nhưng đều chết cả. Người đàn ông trẻ không phải sùng đạo; song những tai họa này làm anh ta nghĩ về sự sai trái mà anh ta gây ra cho vị hôn thê đầu. Anh ta bắt đầu nghĩ ngợi về chuyện này và bắt đầu mơ thấy nó vào ban đêm. Chẳng mấy mà anh ta trở nên ám ảnh với suy nghĩ anh ta sẽ không được yên chừng nào còn chưa có được sự tha thứ từ vị hôn thê cũ mà anh ta nghe nói đã kết hôn. Tin tức này thúc giục anh ta gác lại công việc mà đến Warsaw, nơi anh ta phát hiện ra vị hôn thê cũ của mình sống trong quận chúng tôi – tức là quận cha tôi. Sở dĩ anh ta đến đây nhờ cha tôi giúp đỡ chuyện xin một lá thư tha thứ là vì vậy.

Cha tôi nghe xong mới bảo, “Quả là vậy. Khi một người đã phải chịu sự sai trái, ăn năn cũng vô ích. Người ta phải cầu xin sự tha thứ.”

Rồi cha sai tôi đi đón vị hôn thê cũ của người đàn ông đến phòng xét xử.

Vì chị ta sống trên phố Khlodna, nên người đàn ông trẻ đã cho tôi tiền đi một cuốc xe ngựa hai chiều. Ngồi trên xe ngựa mà không có hành lý cảm giác mới thật lạ lùng. Những cậu nhóc bên ngoài há mồm kinh ngạc. Các chủ tiệm, cả đàn ông lẫn đàn bà, vừa cười vừa vẫy ngón trỏ cảnh cáo về phía tôi. Tôi tựa đầu vào thành xe và cảm thấy lò xo lắc lư bên dưới. Tôi nhẹ đến nỗi sợ mình sẽ ngã. Nhưng tôi thấy thoải mái khi ngồi trên xe ngựa. Tôi nhắm mắt lại và suy ngẫm về sự kỳ lạ của các mối quan hệ của con người. Bởi một người đàn ông trẻ ở Lodz hay Kolish gì đó ban đêm không ngủ được vì nghĩ đến vị hôn thê cũ của mình mà thành ra tôi, một cậu bé trên phố Krochmalna, phải ngồi trên một cỗ xe ngựa vào buổi trưa thứ Tư này.

Tôi đi qua cánh cổng trang nhã của tòa nhà người phụ nữ, leo cầu thang đá cẩm thạch đến căn hộ chị ta và bấm chuông. Một người hầu mặc tạp dề trắng mở cửa và hỏi tôi muốn gì.

“Cô chủ nhà được vời đến phòng xét xử của rabbi.”

Người phụ nữ mau chóng xuất hiện. Chị ta ngoài ba mươi, vẫn đẹp, nhưng bộ ngực đầy của chị đã nặng, và chị đã có những lọn tóc bạc lẩn khuất. Trông chị ta bệ vệ trong vẻ nữ tính của mình cũng như vị hôn phu cũ của chị ta trong vẻ nam tính của anh ta. Chị ta hỏi vì sao tôi đến đây.

“Vị hôn phu cũ của chị cho mời chị đến gặp rabbi – cha tôi,” tôi nói.

Đôi mắt to, đen nhánh của người phụ nữ mở to. “Vị hôn phu nào? Rabbi nào?”

Khi tôi kể cho người phụ nữ mọi thứ tôi nghe được, tôi nhận thấy sắc mặt chị ta thay đổi – lúc tái đi, lúc đỏ bừng. Có lúc suýt bật cười, lúc thì lại buồn bã. Có lúc tôi nghĩ chị ta sẽ hét vào mặt tôi và đuổi tôi ra khỏi căn hộ. Rồi chị ta có vẻ dịu lại. “Cậu đã hiểu những vấn đề này chưa?” chị ta hỏi.

“Cái gì tôi cũng hiểu,” tôi nói với vẻ khoác lác trẻ con.

“Đợi tí. Tôi phải gọi điện cho chồng.”

Tôi đợi một lúc lâu ở hành lang người phụ nữ trẻ mới bước ra, mặc áo khoác, đội mũ.

“Đi thôi.”

Tôi bảo chị ta tôi có tiền trả xe ngựa rồi, nhưng chị ta nói để chị ta trả tiền xe. Chẳng mấy chốc tôi đã ngồi cạnh chị ta – một người phụ nữ trên phố Khlodna sắp gặp vị hôn phu cũ, đi cùng một cậu bé có lọn tóc Do Thái đỏ, người biết những bí mật kỳ lạ, bị cuốn vào những sự vụ của người lạ và đang nghĩ những chuyện hoang đường. Bản thân người phụ nữ không làm tôi hứng thú đến thế, nhưng tôi không rời mắt khỏi con ngựa. Tôi ngồi nhích sang một bên, chỗ đó tôi có thể quan sát phần thân sau rộng và cái đuôi dài của con ngựa, nó lắc lư và dường như nói với tôi một cách câm lặng: Tôi không quan tâm mình chở ai hay đi đâu. Tôi không biết gì cả. Tôi là phần chân sau của con ngựa và sẽ luôn luôn là vậy. Khi tôi ăn yến mạch, tôi có đủ sức để kéo cỗ xe. Tôi không quan tâm ngồi trên đó là một linh mục, một rabbi hay một người Thổ. Thỉnh thoảng đuôi con ngựa lại quất một cái, dấu hiệu cho thấy phần chân sau của nó đang mãn nguyện.

Khi leo cầu thang lên căn hộ của chúng tôi với người phụ nữ, tôi nhận thấy chiếc váy chị ta mặc hẹp và dài. Chị ta phải bước các bước nhỏ và không leo được hai bậc một lúc. Gót giày chị ta cao và bóng. Các mùi trong hiệu thuốc bám vào người chị ta. Chị ta nắm lấy tay áo tôi, như muốn dựa vào tôi để được bảo vệ. Bàn tay đeo găng của chị ta vừa mềm vừa rắn. Một hơi ấm kỳ lạ, bị cấm đoán chạy qua tôi, biến tôi thành một tên khốn thực sự.

Cuộc gặp giữa cặp đôi đã từng đính hôn giống như một điều gì bước ra từ cổ tích. Nó cũng làm tôi nhớ đến câu chuyện về Joseph và các anh em của ông. Người đàn ông thoạt đầu không nhận ra người phụ nữ. Họ nhìn nhau ngạc nhiên, xen giữa lãng quên và hồi tưởng. Cuối cùng, người phụ nữ tuyên bố, “Phải rồi, là anh.”

“Anh nhận ra em ngay mà,” người đàn ông nói, với ý một lời khen.

“Bao lâu rồi? Thôi, tốt hơn là đừng nói,” người phụ nữ nói.

“Thời gian trôi nhanh quá!”

“Anh đeo kính từ bao giờ?”

“Ba năm rồi. Có khi bốn.”

“Anh bị cận hay làm sao?”

“Ừ.”

“Em đã béo lên rồi.”

Trong khi họ trao đổi những chuyện tầm phào này, cha tôi nghiền ngẫm một đoạn kinh, vuốt râu và xoa trán. Giống như lúc trước tôi hoàn toàn chìm đắm vào phần chân sau con ngựa, bây giờ tôi chỉ chú ý đến mắt và tai cặp đôi, hai người đã suýt nên vợ nên chồng nhưng lại trở nên xa cách vì một mối tình ngoài. Cả hai giờ đã có người khác, nhưng một sự gần gũi vẫn còn. Họ xưng hô với nhau theo lối thân mật. Họ đứng mặt đối mặt, nhìn nhau không tài nào cho đủ.

“Chồng em là người thế nào?” tôi nghe thấy anh ta hỏi.

“Một người đàn ông tốt.”

“Em có hạnh phúc với anh ta không?”

“Người ta không thể lúc nào hạnh phúc được,” chị ta trả lời.

“Fania,” anh ta nói, “anh chưa bao giờ quên lỗi lầm anh đã gây ra.”

Cặp kính của anh ta mờ đi như có ai đó hà hơi vào nó.

Người phụ nữ không trả lời ngay. Khuôn mặt chị ta bắt đầu giật giật. Tôi thấy một làn sương trong mắt chị ta đã có thể trở thành một giọt nước mắt, nhưng quá kiêu hãnh sau mười hai năm để khóc trước mặt anh ta, chị ta kìm lại.

Chị ta ngẩng đầu lên. “Mọi chuyện em đã quên rồi.”

“Fania, Chúa đã vì em mà trừng phạt anh.”

“Sao anh lại nói thế? Người ta không bao giờ có thể chắc chắn về những chuyện như vậy.”

Họ nói chuyện; họ thì thầm. Cha tôi đợi, nhưng rồi ông mất kiên nhẫn. Việc nói chuyện và thì thầm của cặp đôi đã từng đính hôn này có vẻ tội lỗi.

“Chị là phụ nữ đã có chồng,” cha tôi bảo chị ta. “Anh đây cũng đã có gia đình. Hãy tha thứ cho anh đây và Đấng Trên Cao sẽ phù hộ cả hai người.”

“Tôi tha thứ cho anh ấy,” người phụ nữ tuyên bố. “Chúa nhất định cũng sẽ tha thứ cho anh ấy.”

“Tốt hơn là nên lập sự tha thứ thành văn bản,” cha tôi nói.

Từ “tha thứ” khiến tôi muốn bật cười. Trong tiếng Yiddish, nó – mekhila – còn có một nghĩa nữa, không hay gì: “đằng đít”. Tôi muốn cười phá lên như một đứa trẻ, nhưng tôi cố hết sức nín lại. Cha viết vài từ tiếng Hebrew. Ông làm hai bản. Người đàn ông phải đưa cho chị ta một bản tuyên bố tha thứ và chị ta phải đưa cho anh ta một bản – và cả hai phải ký vào đó.

“Tôi chỉ biết ký tiếng Ba Lan,” người phụ nữ nói.

“Cũng được, miễn ký là được,” cha tôi nói.

Chị ta cầm bút hết sức yểu điệu, tì ngón tay vào giá đỡ, và không tháo cái găng tay da dê ra, chị ta ký bằng họ của người chồng hiện tại trong nét chữ run rẩy. Chữ ký của chị ta cho thấy học vấn, sự giàu có và sự lịch duyệt. Chỉ những người sống trên phố Khlodna và có cầu thang dẫn vào bằng đá cẩm thạch và chuông trên cửa mới có chữ ký như thế. Người đàn ông viết tên mình bằng tiếng Yiddish, nhưng chữ ký của anh ta cũng có nét hiện đại.

“Tên anh là gì?” cha tôi hỏi. “Tôi không đọc ra.”

“Zigmunt.”

“Anh được gọi lên Torah bằng tên gì?”

“Lên Torah?… Zalman.”

“Ký lại,” cha tôi ra lệnh. “Tên Hebrew của anh.”

Người đàn ông trẻ ký “Zalman.”

Cha tôi lấy một rúp và tôi có một đồng bốn mươi kopeck trong túi. Cặp đôi rời khỏi căn hộ cùng nhau. Tôi thấy như cha tôi muốn gọi họ lại và cảnh báo họ không được phép đi cùng nhau, nhưng ông chưa kịp nói gì họ đã đi mất xuống cầu thang.

Tôi chạy ra ban công, đợi họ đi ra từ cổng trước. Nhưng tôi đợi rất lâu, tôi không biết phải nghĩ gì. Họ ở lại trong sân hay sao? Hay họ ở trong cổng? Hay là tôi không đuổi kịp nên họ đã đi mất rồi. Tôi sốt hết cả ruột. Cuối cùng, họ xuất hiện và dường như anh ta đang khoác tay chị ta. Không hẳn khoác tay, mà là lấy bàn tay anh ta đỡ khuỷu tay chị ta. Lạ thật, họ đi chậm sao mà chậm. Họ dừng lại liên tục. Họ không đi về phía phố Khlodna mà về phía Gnoyna. Họ mải mê trò chuyện đến đến nỗi rõ ràng là họ không biết mình đang đi đâu.

Tôi đã đọc các tiểu thuyết lãng mạn của nhà văn Yiddish nổi tiếng Shomer, và trí tưởng tượng của tôi đang làm việc hết công suất. Biết đâu, tôi nghĩ, người đàn ông đang muốn đưa chị ta đến lâu đài của mình. Biết đâu anh ta là một bá tước. Biết đâu chị ta, người phụ nữ đi cùng anh ta, đang cải trang mà thôi. Biết đâu anh ta sẽ bắn chị ta bằng súng lục rồi tự sát. Biết đâu toàn bộ cái chuyện tha thứ kia chỉ là mưu mẹo. Có lẽ tôi nên chạy xuống phố và bám theo họ. Nhưng không – họ sẽ nhận ra tôi. Tôi nhớ ra số tiền trong túi và quyết định xuống phố Tvarda để mua cho mình một cuốn truyện. Không phải một, mà tận hai. Không phải hai, mà tận sáu.

Tôi chạy xuống phố Tvarda. Người bán báo đứng đó đội một chiếc mũ nhỏ màu đỏ. Giá sách nhỏ của ông chất đầy sách: Sherlock Holmes, Max Shpitzkopf, và những đầu sách như Các bí mật khủng khiếp, Bí mật của triều Kaiser, Công chúa bị bắt cóc, Cô gái mồ côi bị phù phép, Một nghìn hai trăm tên trộm. Đầu sách nào cũng hút tôi như một thỏi nam châm. Mỗi quyển sách nhỏ đều có sự bí ẩn, sự tài tình và những mưu mô lạ lùng riêng. Nhưng tôi không thể mua tất. Tôi phải chọn.

Tôi tiêu đồng kopeck cuối cùng và mang về một chồng sách. Đường phố và bọn trẻ con không còn làm tôi bận tâm gì nữa. Tôi chỉ có một ước muốn: rằng niềm sung sướng của tôi không bị ngắt quãng, rằng tôi có thời gian đọc mọi thứ từ đầu chí cuối.

Và một lúc nào đó tôi đã ngẫm nghĩ rằng mình cũng muốn viết một cuốn truyện – đầy những bí mật và những bí ẩn, đầy những bá tước và những cô gái mồ côi và những tên trộm bị phù phép, với một cặp cô dâu chú rể tên là Fania và Zigmunt, những người đã không thấy mặt nhau suốt mười hai năm và sau đó gặp nhau tại nhà của một rabbi, mà ngay lập tức sau đó tình yêu của họ đã được nhóm lại và bắt đầu bùng lên như một ngọn lửa địa ngục.

Isaac Bashevis Singer, “He Wants Forgiveness from Her,” More Stories from My Father’s Court: A Collection, trans. Curt Leviant (Farrar, Straus and Giroux, 2001).

Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Leave a comment

Information

This entry was posted on February 1, 2025 by in Truyện and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

Design a site like this with WordPress.com
Get started