Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Mọi nhạc cụ đều hòa chung vào niềm vui
Khi một thi sĩ bước vào khu vườn của trái đất.
Bốn trăm dòng sông nước thẳm xanh lao động
Cho sự ra đời của anh ta, và con tằm
Nhả tơ vì anh ta, xe những chiếc kén sáng bóng.
Cánh cướp biển của con ruồi, miệng của con bướm
Được hình thành với anh ta trong tâm trí.
Và tòa nhà nhiều tầng của cây đậu cánh chim
Làm bừng sáng màn đêm cho anh ta ở rìa đồng.
Như thế tất cả các nhạc cụ vui mừng
Bị nhốt trong những chiếc hộp và bình cây xanh
Chờ anh ta chạm vào và phát ra âm thanh.
Vinh quang cho góc trái đất đã sinh ra thi sĩ!
Tin tức ấy lan khắp các vùng biển ven bờ
Nơi, ngủ trên mặt, nổi lũ mòng biển và sương mù
Và xa hơn, các con tàu nhấp nhô lên xuống.
Tin tức ấy lan khắp những dãy núi dưới trăng sáng
Và ánh trăng cho thấy người thi sĩ ở bên bàn
Trong một căn phòng lạnh, ở một thị trấn vô danh,
Đồng hồ trên tháp đang điểm giờ từng tiếng.
Nhà anh ta là ở trong lá thông, trong tiếng nai,
Trong vụ nổ các vì sao và trong bàn tay con người.
Đồng hồ không đo tiếng hát anh ta. Tiếng vọng,
Sự cổ xưa của biển cả như trong một vỏ sò,
Không bao giờ câm lặng. Anh ta sẽ còn. Và mạnh mẽ
Là tiếng thì thầm của anh ta an ủi con người.
Hạnh phúc thay cho dân tộc nào có một thi nhân.
Trong lao tác của anh ta họ không đi trong im lặng.
Không ưa thi nhân chỉ có các nhà hùng biện.
Ngồi trên những chiếc ghế thủy tinh họ xổ ra
Các cuộn giấy dài, những tràng giang quý phái.
Và tiếng cười của thi sĩ vang vọng khắp nơi
Và sự sống của anh ta không có hồi kết.
Các nhà hùng biện tức giận. Họ biết ghế họ sẽ sập,
Biết chỗ họ ngồi sẽ không mọc ra
Được một ngọn cỏ. Đến đàn kiến cũng tránh xa
Vòng lưu huỳnh cháy rụi, thứ bụi đỏ cằn cỗi.
Washington, D.C., 1948
Czesław Miłosz, “To Tadeusz Rózewicz, Poet,” Poet in the New World: Poems, 1946-1953, trans. and eds. Robert Hass & David Frick (Ecco Press, 2025).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.