Pablo Neruda (1904–1973) là nhà thơ người Chilê. Ông được trao giải Nobel văn chương năm 1971 cho “một thứ thơ […] đã làm sống lại định mệnh và những ước mơ của một châu lục.”
Một ngày mặc áo tang rơi xuống từ những chiếc chuông
như tấm mạng run rẩy của một góa phụ lang thang,
nó là một màu sắc, một giấc mơ
của những quả anh đào chìm trong lòng đất,
nó là một cái đuôi khói không ngừng đến
để thay đổi màu sắc của nước và những nụ hôn.
Tôi không biết người ta có hiểu tôi không: khi từ trên cao
đêm đến, khi người thi sĩ đơn độc
bên cửa sổ nghe thấy tiếng chạy của con ngựa mùa thu
và những chiếc lá của nỗi sợ bị giẫm đạp lao xao trong động mạch,
có một thứ gì đó trên bầu trời, như một cái lưỡi bò,
dày, thứ gì đó trong sự hồ nghi của bầu trời và khí quyển.
Mọi thứ trở về chỗ của chúng,
gã luật sư không thể thay thế, đôi tay, dầu,
những cái chai,
mọi dấu hiệu của sự sống: những chiếc giường, trên hết,
chúng chứa đầy một chất lỏng đỏ máu,
người ta đặt lòng tin vào những đôi tai dơ bẩn,
những kẻ giết người đi xuống cầu thang,
nhưng nó không phải thế, mà là cú phi nước đại cũ,
con ngựa mùa thu cũ, run rẩy và tồn tại mãi.
Con ngựa của mùa thu cũ có một bộ râu đỏ
và bọt của nỗi sợ hãi phủ lên má nó
và không khí đi theo nó có hình dạng của đại dương
và mùi của sự thối rữa mơ hồ bị chôn lấp.
Mỗi ngày một màu tro rơi xuống từ bầu trời
những con bồ câu phải đem chia trên mặt đất:
sợi dây thừng dệt nên bởi sự lãng quên và nước mắt,
thời gian thứ đã ngủ những năm dài trong những chiếc chuông,
tất cả,
những bộ đồ cũ nát, những phụ nữ nhìn thấy tuyết rơi,
những bông anh túc đen không ai có thể nhìn mà không chết,
tất cả rơi xuống đôi tay tôi giơ lên
giữa trận mưa xuống.
Pablo Neruda, “Vuelve el otoño,” Residencia en la tierra (Ediciones del Árbol, 1935).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.