Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"

“Những chiếc lá bách” – Jorge Luis Borges

Jorge Luis Borges (1899–1986) là nhà văn và nhà thơ người Argentina, một nhân vật chủ chốt trong nền văn chương tiếng Tây Ban Nha với những tác phẩm đã trở thành điển phạm của châu Mỹ Latin trong thế kỷ XX. Sách của ông bắt đầu được dịch và xuất bản rộng rãi ở Mỹ và châu Âu sau khi ông được trao giải Prix International cùng Samuel Beckett năm 1961. Danh tiếng quốc tế của ông cũng được củng cố bởi các giải de Cervantes năm 1969 và giải Jerusalem năm 1971, bên cạnh sự bùng nổ của các nhà văn Mỹ Latin thuộc thế hệ sau trong những năm 1960 và 1970.

Những chiếc lá bách

Tôi có một kẻ thù duy nhất. Tôi sẽ không bao giờ biết bằng cách nào hắn vào được nhà tôi đêm 14 tháng 4 năm 1977. Hắn mở hai cánh cửa: cánh cửa nặng ngoài phố và cánh cửa dẫn vào căn hộ nhỏ của tôi. Hắn bật đèn và đánh thức tôi khỏi cơn ác mộng tôi không nhớ, nhưng trong đó có một khu vườn. Không cất giọng hắn ra lệnh cho tôi đứng dậy và mặc quần áo ngay lập tức. Cái chết của tôi đã được quyết định và nơi được chọn cho cuộc hành quyết hơi xa. Câm lặng vì sửng sốt tôi nghe lời. Thấp hơn tôi nhưng hắn khỏe hơn, lòng hận thù đã cho hắn sức mạnh. Qua năm tháng hắn không thay đổi; chỉ có vài sợi bạc trên mái tóc sẫm. Một kiểu hạnh phúc tăm tối làm hắn rạo rực. Hắn đã luôn luôn thù hận tôi và bây giờ hắn sẽ giết tôi. Con mèo Beppo nhìn chúng tôi từ cõi vĩnh hằng của nó, nhưng nó chẳng làm gì để cứu tôi cả. Cũng thế là con hổ gốm xanh trong phòng ngủ của tôi, cũng như các pháp sư và thần đèn trong các tập Nghìn lẻ một đêm. Tôi muốn có thứ gì đó đi cùng. Tôi đề nghị hắn cho tôi mang theo một cuốn sách. Chọn một cuốn Kinh Thánh thì quá hiển nhiên. Trong số mười hai quyển của Emerson tay tôi lấy một quyển ngẫu nhiên. Để không gây ra tiếng động chúng tôi đi xuống cầu thang. Tôi đếm từng bước chân. Tôi nhận thấy hắn cẩn thận không chạm vào tôi, như thể tiếp xúc có thể làm hắn bị ô uế.

Ở góc Charcas và Maipú, trước khu tập thể, một chiếc cupê đang đợi. Bằng một cử chỉ trịnh trọng như ra lệnh hắn bắt tôi lên xe trước. Người đánh xe đã biết sẵn điểm đến của chúng tôi và quất ngựa. Chuyến đi rất chậm và, như người ta có thể tưởng tượng, im lặng. Tôi sợ (hay hy vọng) nó cũng sẽ bất tận. Đêm trăng sáng và tĩnh lặng, không một làn gió. Trên phố không có lấy một bóng người. Ở hai bên xe những ngôi nhà thấp, tất tật giống hệt nhau, tạo thành một đội danh dự. Tôi nghĩ: Bây giờ chúng ta đang ở phương Nam. Cao trong bóng tối tôi thấy một chiếc đồng hồ tháp; mặt đồng hồ lớn, sáng rực không có số cũng không có kim. Theo tôi biết, chúng tôi đã không đi qua một đại lộ nào. Tôi không sợ, không cả sợ mình sợ, không cả sợ mình sợ mình sợ, theo cái cách bất tận của các triết gia Elea, nhưng khi cửa mở và phải ra ngoài, tôi suýt ngã. Chúng tôi leo lên một số bậc đá. Có những luống hoa nhẵn nhụi dị thường và nhiều cây. Hắn dẫn tôi đến một gốc cây và lệnh cho tôi nằm ngửa xuống cỏ, bắt chéo tay. Từ tư thế đó tôi phát hiện ra một con sói La Mã và biết chúng tôi đang ở đâu. Cây tử thần của tôi là cây bách. Không chủ ý tôi nhẩm lại dòng thơ nổi tiếng: Quantum lenta solent inter viburna cupressi.

Tôi nhớ rằng “lenta” trong ngữ cảnh có nghĩa là mềm dẻo, nhưng chẳng có gì mềm dẻo nơi những chiếc lá trên cái cây của tôi. Chúng tất tật đều giống nhau, cứng, bóng và làm từ một thứ vật chất chết. Trên mỗi chiếc lá lại có một chữ cái biểu tượng. Tôi cảm thấy ghê tởm và nhẹ nhõm. Tôi biết một nỗ lực lớn có thể cứu tôi. Cứu tôi và biết đâu hủy hoại hắn, bởi bị lòng thù hận xâm chiếm, hắn đã không để ý đến chiếc đồng hồ hay những cành cây quái dị. Tôi thả tấm bùa hộ mệnh của mình xuống và lấy cả hai tay nắm chặt cỏ. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối, tôi nhìn thấy một ánh thép lóe lên. Tôi tỉnh dậy; tay trái tôi đang áp vào bức tường phòng tôi.

Thật là một ác mộng lạ lùng, tôi nghĩ, rồi mau chóng chìm vào giấc ngủ.

Hôm sau tôi phát hiện ra một khe hở trên giá sách; cuốn sách của Emerson đã mất, nó đã bị bỏ quên trong giấc mơ của tôi. Mười ngày sau, tôi được biết kẻ thù của tôi đã rời khỏi nhà vào một đêm và không trở về. Hắn sẽ không bao giờ trở về. Bị nhốt trong ác mộng của tôi, hắn sẽ tiếp tục khám phá với nỗi hãi hùng, dưới vầng trăng tôi đã không nhìn thấy, thành phố của những chiếc đồng hồ trống, của những cái cây giả không thể mọc và ai biết còn những gì khác nữa.

Jorge Luis Borges, “Las hojas del ciprés,” Los conjurados (Alianza Editorial, 1985).

Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Leave a comment

Information

This entry was posted on July 3, 2025 by in Thơ and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

Design a site like this with WordPress.com
Get started