Zbigniew Herbert (1924–1998) là nhà thơ người Ba Lan. Ông được trao giải nhà nước Áo cho văn chương châu Âu năm 1965, giải Herder năm 1973, và giải Jerusalem năm 1991.
Hình minh họa ba chiều từ các cuốn sách giáo khoa thảm hại. Trắng bệch như xác chết, tóc khô, ống tên rỗng, và một cây trượng thyrsus héo úa. Họ đứng bất động trên các hòn đảo hoang cằn, giữa những tảng đá sống, dưới một bầu trời rậm lá. Aphrodite đối xứng, Jove được đàn chó khóc thương, Bacchus say thạch cao. Một nỗi ô nhục với thiên nhiên. Địa y của các khu vườn.
Các vị thần đích thực chỉ thoáng chốc và miễn cưỡng bước vào làn da của các tảng đá. Công to việc lớn – sấm sét và bình minh, nạn đói và những cơn mưa vàng – đòi hỏi sự cơ động bất thường. Họ chạy khỏi các thành phố cháy, bám víu vào sóng biển họ dong buồm đến các hòn đảo xa xôi. Trong áo quần rách rưới của những kẻ ăn xin họ vượt qua ranh giới các thời đại và các nền văn minh.
Săn và bị săn, mồ hôi mồ kê, ồn ào, trong cuộc truy đuổi không ngừng loài người chạy trốn.
Zbigniew Herbert, “Ornamental Yet True,” Selected Poems of Zbigniew Herbert, trans. Bogdana and John Carpenter (Oxford University Press, 1977).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.