Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"

Requiem – Anna Akhmatova

Anna Akhmatova sinh năm 1889 ở Odessa. Năm 1910 bà kết hôn với nhà thơ Nikolai Gumilev và cùng chồng và các nhà thơ như Osip Mandelstam và Sergey Gorodetsky lập nên trường phái thơ Acme. Năm 1912 bà xuất bản tập thơ đầu và chỉ trong chín năm bà cho ra đời thêm bốn tập thơ khác. Năm 1918 bà ly hôn với Gumilev và kết hôn với Vladimir Shileyko cho đến khi ly dị năm 1926, trong khi Gumilev bị Cheka hành quyết năm 1921. Bà có thêm một mối tình nữa với Nikolai Punin, người qua đời trong Gulag năm 1953. Thơ của Akhmatova bị chính quyền cấm xuất bản cho đến năm 1940, rồi một lần nữa sau khi Thế chiến II kết thúc. Hai tuyển tập thơ của bà được xuất bản trở lại vào các năm 1958 và 1961, nhưng phải đến năm 1987 tác phẩm vĩ đại của bà về cuộc Đại thanh trừng, Requiem, mới được xuất bản ở Liên Xô. Thay vì chọn cuộc sống lưu vong như nhiều nhà thơ cùng thời, bà ở lại Leningrad cho đến khi qua đời năm 1966.

REQUIEM

Không, không phải dưới một bầu trời lạ,
Cũng không phải dưới đôi cánh lạ chở che, –
Tôi đã ở với đồng bào tôi khi đó
Nơi, đồng bào tôi, bất hạnh thay, đã ở.

1961

Thay lời tựa

Trong những năm Yezhovshchina hãi hùng tôi đã có mười bảy tháng đứng trong các hàng chờ thăm tù của Leningrad. Lần đó có người “nhận dạng” ra tôi. Rồi người đàn bà môi tím tái đứng sau tôi, tất nhiên chị chưa từng nghe tên tôi trong đời, bừng tỉnh khỏi cơn đờ đẫn bao trùm lên tất thảy chúng tôi và ghé vào tai tôi (ở đó ai nấy nói chuyện đều thì thầm):

– Chị có thể tả lại chuyện này không?

Và tôi đáp:

– Tôi có thể.

Rồi cái gì như một nụ cười hiện thoáng qua cái đã từng là khuôn mặt chị.

1 tháng 4, 1957
Leningrad

Lời đề tặng

Trước nỗi đau đớn này núi non cúi mặt,
Những dòng sông hùng vĩ cũng ngừng trôi,
Song các cánh cổng nhà tù vẫn đóng chặt,
Và đằng sau chúng “những hang ổ kẻ khổ sai,”
Cùng với nỗi khổ ải chết người.
Với một ai đó, gió mát lành đang thổi,
Với một ai đó, đang chiếu đỏ hoàng hôn –
Chúng ta không biết, ở khắp nơi chúng ta như một,
Chỉ nghe thấy tiếng chìa khóa đáng căm,
Và những tên lính nặng nề giậm chân.
Chúng ta dậy như đi lễ mi xa sớm.
Chúng ta lê bước qua kinh thành hoang
Và ở đó gặp nhau, vô hồn hơn cả người chết,
Mặt trời thấp và dòng Neva thêm mù mịt,
Song từ xa hy vọng vẫn ngân vang.
Bản án tuyên… Và lập tức trào nước mắt,
Khỏi mọi người chị đã bị chia cắt,
Như thể sự sống đã bị vắt khỏi trái tim,
Như thể chị đã bị quật ngã thô bạo,
Nhưng chị bước đi… Một mình… Lảo đảo…
Nay họ ở đâu những người bạn cơ duyên
Tôi đã có trong hai năm địa ngục?
Họ đã trông thấy gì trong bão tuyết Siberia,
Gì với họ hiện ra trong vòng tròn mặt nguyệt?
Tôi xin gửi tới họ lời chào vĩnh biệt.

1940

Lời nói đầu

Đó là khi chỉ người chết mỉm cười,
Vui mừng khi được nằm xuống.
Quanh các nhà tù của nó Leningrad đung đưa
Như một khúc ruột thừa lủng lẳng.
Và khi đã hóa điên vì đau đớn
Các trung đoàn người bị kết tội hành quân
Những chiếc còi trên xe lửa bèn ngân
Một khúc ca chia ly ngắn ngủi.
Những ngôi sao tử thần trên đầu ta đứng
Và mảnh đất Nga vô tội rúm mình
Dưới những đôi ủng còn dính đầy vết máu
Và dưới bánh những chiếc xe đen.

I

Người ta giải anh đi lúc bình minh,
Em bước theo, như một người đưa đám,
Trẻ con khóc trong căn phòng tối tăm,
Trên ban thờ cây đèn cầy sáp chảy.
Trên môi anh còn hơi lạnh tượng thánh.
Trên trán mồ hôi phàm… đừng quên!
Em sẽ như những người vợ lính Streltsy đứng
Tru dưới những tòa tháp của Kremlin.

1935

II

Sông Đông êm đềm chảy chậm,
Vầng trăng vàng vọt vào nhà.

Nó bước vào, đội mũ lệch,
Thấy một cái bóng trông ra.

Người đàn bà này đau ốm,
Người đàn bà này lẻ loi.

Chồng dưới mồ, con trong ngục,
Xin hãy cầu nguyện cho tôi.

III

Không, nào phải tôi, đau khổ là người khác.
Tôi không chịu nổi, và những gì xảy ra
Hãy để cho tấm vải đen che phủ
Và để họ đem đi những chiếc đèn lồng…
                                                       Đêm.

IV

Giá cô thấy được, kẻ nhạo báng,
Kẻ được cưng yêu giữa tất cả bạn bè,
Tội đồ vui vẻ của Tsarskoye Selo,
Điều gì với cuộc đời cô sẽ đến –
Người thứ ba trăm, tay xách nải,
Cô sẽ đứng dưới nhà tù Kresty
Và những giọt nước mắt nóng kia
Sẽ đốt cháy lớp băng của năm mới.
Nơi đó cây dương của nhà tù nghiêng ngả
Không tiếng động – và không kể xiết,
Bao sinh mạng vô tội đang chết…

V

Ta đã kêu gào mười bảy tháng
Mong gọi con về nhà.
Ta đã quỳ dưới chân đao phủ –
Con là con và nỗi hãi hùng của ta.
Mọi thứ cứ hoài lẫn lộn,
Và ta không thể nhìn ra
Ai là quái thú, ai là người, và
Ngày hành quyết còn bao lâu phải đợi.
Chỉ còn những bông hoa đầy bụi,
Tiếng cọc lư hương, và những vết
Từ đâu đó đến vô định.
Và nhìn thẳng vào mắt ta
Và đe dọa bằng cái chết sắp đến
Một ngôi sao rất lớn.

1939

VI

Các tuần nhẹ trôi qua chóng,
Mẹ không hiểu chuyện xảy ra.
Chúng đã nhìn con ra sao
Trong tù, những đêm trắng,
Chúng lại nhìn thêm lần nữa
Bằng con mắt bỏng diều hâu,
Và nói về cây thập tự cao
Của con, về cái chết.

1939

VII

Bản án

Và lời nặng như đá kia rơi xuống
Trên bầu ngực vẫn còn sống của tôi.
Chẳng sao đâu, tôi đã sẵn sàng rồi,
Tôi sẽ vượt qua được, có cách.

Ngày hôm nay tôi còn nhiều việc khác:
Tôi phải giết ký ức đã từ lâu,
Phải làm sao cho tâm hồn hóa đá,
Phải học cách sống lại từ đầu.

Bằng không… Tiếng nóng hè xào xạc
Như lễ hội ngoài cửa sổ nhà tôi.
Tôi đã nhìn thấy trước chuyện này rồi
Ngày tươi sáng và ngôi nhà trống.

22 tháng 6, 1939

VIII

Gửi cái chết

Đằng nào cũng đến. – Sao không đến luôn?
Ta đợi mi – ta không chịu được nữa.
Ta đã tắt hết đèn và mở cửa
Sẵn cho mi, rất đơn giản và lạ lùng.
Bất kể hình dạng, mi hãy cứ xông
Vào trong đây như một viên đạn độc,
Hoặc cầm vật nặng mà lẻn vào như trộm,
Hoặc đầu độc bằng hơi sốt phát ban.
Hoặc với cổ tích mi bịa ra, đã quen
Với người ta đến buồn nôn phát ngấy,
Để ta trông thấy cái chóp mũ xanh
Và người quản gia tái mặt vì sợ hãi.
Chẳng quan tâm. Sông Yenisei vẫn chảy,
Sao Bắc Cực vẫn nhấp nháy lung linh,
Và ánh sáng xanh trong đôi mắt yêu dấu
Mờ đi trước nỗi kinh hãi cuối cùng.

19 tháng 8, 1939

IX

Sự điên cuồng, bằng đôi cánh
Đã che khuất nửa tâm hồn,
Chuốc tôi say bằng rượu mạnh
Và vẫy vào thung lũng đen.

Và tôi hiểu rằng chiến thắng
Cho nó tôi sẽ phải nhường,
Lắng nghe cái cơn mê sảng
Của mình như kẻ không quen.

Và nó sẽ không cho phép
Tôi mang theo gì bên mình
(Dẫu có thế nào nài nỉ
Và có quấy quả van xin):

Không mắt con tôi hãi khiếp –
Tột cùng hóa đá nỗi đau,
Không ngày đổ cơn bão táp,
Không giờ gặp mặt trong lao,

Không bàn tay ngọt hơi mát,
Không bóng cây đoạn rung rinh,
Không tiếng động xa rất khẽ –
Những lời an ủi cuối cùng.

4 tháng 5, 1940

X

Đóng đinh

“Đừng khóc thương con, Mẹ ơi,
khi thấy con dưới mộ.”

         1

Dàn hợp xướng thiên thần hát ngợi ca giờ trọng đại,
Và bầu trời trong những ngọn lửa tan.
Ngài nói với Cha: “Sao Người bỏ rơi con?”
Và: “Xin đừng khóc thương con…” với Mẹ.

1940

         2

Ma-đơ-len đấm ngực và thổn thức,
Người môn đồ yêu dấu đã hóa đá rồi,
Và nơi Đức Mẹ đứng trong lặng lẽ,
Nơi đó không một ai dám ghé mắt nhìn.

1943

Lời kết

         1

Tôi đã biết cách những khuôn mặt sụp xuống,
Cách nỗi sợ dưới mí mắt trông ra,
Cách các trang chữ hình nêm cứng nhắc
Nỗi đau khổ đã lên má in hằn,
Cách một đêm chuyển sang màu bạc trắng
Những lọn tóc màu tro xám và đen,
Cách nụ cười tắt trên đôi môi phục tùng,
Và nỗi sợ run rẩy trong tiếng cười khô khốc.
Và không chỉ cho mình tôi cầu nguyện,
Mà cho tất cả đã đứng đó cùng tôi
Giữa cái lạnh bạo tàn, giữa tháng Bảy hập hơi,
Dưới bức tường mù sơn màu đỏ gắt.

         2

Một lần nữa giờ tưởng niệm đã gần đến.
Tôi thấy, nghe, cảm nhận được các chị, các anh:

Người họ đã suýt không dìu đến nổi cửa sổ,
Người đã không còn giẫm lên mảnh đất quê mình,

Người đã lắc mái đầu rất đẹp,
Nói: “Đến đây, giống như trở về nhà.”

Tôi muốn gọi từng người bằng tên, bằng họ,
Nhưng danh sách đã bị tịch thu.

Cho họ tôi đã dệt một tấm vải rộng
Từ những lời khốn khổ của họ tôi trộm nghe.

Tôi luôn luôn và ở khắp nơi nhớ đến họ,
Ngay cả trong tai ách mới sẽ không quên,

Và nếu người ta bịt cái miệng khổ ải,
Miệng tôi qua đó đã gào thét trăm triệu người,

Thì hãy để họ nhớ đến tôi như vậy
Vào đêm trước ngày tưởng niệm tôi.

Và nếu ở đất nước này một ngày nào đó
Họ quyết định dựng cho tôi một tượng đài

Tôi xin trịnh trọng gửi lời đồng ý,
Nhưng với một điều kiện – không được xây

Gần bên biển, nơi tôi chôn rau cắt rốn
(Mối liên hệ cuối với biển đã không còn),

Cũng không trong vườn Sa hoàng bên gốc cây yêu dấu
Nơi một cái bóng không ngoai sẽ tìm kiếm tôi,

Mà ở đây, nơi ba trăm tiếng tôi đã đứng,
Nơi then cổng không mở cho tôi bao giờ.

Bởi, ngay cả trong cái chết êm ái, tôi vẫn sợ
Sẽ quên tiếng gầm của những chiếc xe đen,

Quên làm sao cánh cổng đáng căm đã đóng sập,
Và bà cụ rú lên như con thú bị thương.

Và xin cho tuyết tan rỏ xuống như nước mắt
Từ đôi mí của tôi bất động bằng đồng,

Và xin cho con bồ câu nhà tù rù rù phía xa
Và những con tàu lặng lẽ lướt trên dòng Neva.

tháng 3, 1940

Anna Akhmatova, Реквием (1935–1940).

Nguyễn Huy Hoàng & Phạm Hà Anh dịch.

Leave a comment

Information

This entry was posted on August 17, 2025 by in Thơ and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

Design a site like this with WordPress.com
Get started