Tomas Tranströmer (1931–2015) là nhà thơ người Thụy Điển. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1990 và giải Nobel văn chương năm 2011.
I
Tôi đã suýt chết ở đây một buổi tối tháng Hai.
Chiếc xe trượt ngang trên mặt băng láng
sang phía bên kia đường. Những chiếc xe đi đến –
các đèn pha của chúng – tiến lại gần.
Tên tôi, các con gái của tôi, công việc của tôi
tách ra và bị bỏ lại im lặng đằng sau,
ngày càng xa. Tôi vô danh
như một cậu bé bị địch thủ bao vây giữa sân trường.
Dòng xe ngược chiều có những ánh đèn khổng lồ.
Chúng rọi vào tôi trong khi tôi đánh lái
trong một nỗi khiếp đảm trong suốt, lơ lửng như lòng trắng.
Các giây phình ra – trong chúng có không gian –
chúng to ra như các tòa nhà bệnh viện.
Bạn gần như có thể dừng lại
và hít một hơi
trước khi bị đè bẹp.
Rồi một cái gì bắt lấy: một hạt cát cứu giúp
hay một cơn gió kỳ diệu. Chiếc xe bứt ra
và mau chóng chạy tót qua đường.
Một cây cột bật lên và gãy – một tiếng keng sắc– nó
bay vào trong bóng tối.
Tất cả yên tĩnh. Tôi ngồi yên dưới dây an toàn
và nhìn người ta đi qua tuyết cuộn
đến xem chuyện gì đã xảy ra với tôi.
II
Tôi đã đi bộ rất lâu
trên các cánh đồng băng giá của Östergötland.
Không một bóng người.
Ở những nơi khác trên thế giới
có những người sinh ra, sống, chết đi
trong một đám đông liên tục.
Luôn luôn trông thấy được – sống
trong một bầy những con mắt –
phải dẫn đến một biểu cảm đặc biệt.
Khuôn mặt đắp đất sét.
Tiếng rì rầm cất lên rồi lặng đi
trong khi họ chia nhau
bầu trời, những cái bóng, những hạt cát.
Tôi phải ở một mình
mười phút vào buổi sáng
và mười phút vào buổi tối.
– Không chương trình.
Người ta ai cũng xếp hàng trước nhà người khác.
Nhiều người.
Một.
Tomas Tranströmer, “Alone,” The Great Enigma: New Collected Poems, trans. Robin Fulton (New Directions, 2006).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.