Constantine P. Cavafy (1863–1933) là nhà thơ người Hy Lạp.
Khi nhận tin khủng khiếp, rằng Myres đã chết
tôi đã đến nhà anh, mặc dầu tôi tránh
đến nhà của những Cơ đốc nhân,
nhất là trong thời gian tang lễ hay lễ hội.
Tôi đứng ở hành lang. Tôi không muốn
đi sâu hơn vào bên trong, bởi chưng tôi nhận thấy
họ hàng của người đã khuất nhìn tôi
với vẻ ngạc nhiên thấy rõ, và không hài lòng.
Họ đặt anh trong một căn phòng rộng,
và từ góc phòng tôi đứng
tôi có thể thoáng thấy: tất tật thảm quý,
và những chiếc bình bạc và vàng.
Tôi đứng khóc ở một góc hành lang.
Và tôi nghĩ các bữa tiệc, chuyến đi của chúng tôi
sẽ chẳng còn ý nghĩa gì khi không còn Myres;
và nghĩ mình sẽ không còn thấy anh
trong những buổi đêm dài suồng sã của chúng tôi
thư giãn, cười đùa và đọc thơ
với cảm nhận hoàn hảo của anh về nhịp Hy Lạp;
và tôi nghĩ mình đã mất mãi mãi
vẻ đẹp của anh, mất mãi mãi
chàng trai trẻ mà tôi đã tôn thờ say đắm.
Mấy bà cụ gần tôi đang nói chuyện thì thầm
về những ngày cuối cùng anh sống:
tên của đấng Kitô luôn ở trên môi anh,
bàn tay anh cầm một cây thập giá.
Sau đó, bốn linh mục Cơ đốc
bước vào, và đọc những lời cầu nguyện
sốt sắng, và những lời thỉnh cầu trước Jesus,
hay Mary (tôi không biết rõ về tôn giáo họ).
Dĩ nhiên, chúng tôi biết Myres là một Cơ đốc nhân,
biết điều đó ngay từ đầu,
khi anh mới gia nhập băng chúng tôi năm kia.
Nhưng anh đã sống hệt như chúng tôi sống.
Hiến mình cho lạc thú hơn tất thảy chúng tôi,
anh vung tiền vào những thú tiêu khiển.
Không quan tâm người ta nghĩ gì về mình,
anh hăng hái lao vào những cuộc ẩu đả ban đêm,
khi băng chúng tôi vô tình đụng độ
với một băng đối thủ nào đó trên phố.
Không bao giờ anh nói về tôn giáo của mình.
Thậm chí, có lần chúng tôi bảo anh
chúng tôi sẽ đưa anh cùng đến đền thờ Serapis.
Nhưng bây giờ tôi mới nhớ ra
có vẻ anh không thích cái trò đùa ấy.
Và phải, tôi cũng nhớ ra hai lần khác nữa.
Khi chúng tôi dâng lễ vật lên Poseidon,
anh rút khỏi vòng tròn chúng tôi và nhìn đi chỗ khác.
Và khi một trong số chúng tôi tha thiết nói:
“Cầu cho tất cả chúng ta được Apollo vĩ đại, cao cả
ưu ái và phù hộ” – Myres, những người khác
không nghe thấy, thì thầm: “chừa tôi ra.”
Các linh mục Cơ đốc đang cất giọng cầu nguyện
cho linh hồn của chàng trai trẻ.
Tôi nhận thấy làm sao, với biết bao chu tất,
với biết bao chăm chút tỉ mẩn
cho các nghi thức tôn giáo của họ, họ sửa soạn
mọi thứ cho một đám tang Cơ đốc giáo.
Và bất thình lình một cảm giác kỳ lạ
chiếm lấy tôi. Tôi cảm thấy, không định nghĩa nổi,
như thể Myres đang xa rời khỏi tôi;
tôi cảm thấy anh, một Cơ đốc nhân, đã hợp nhất
với những người của anh, và tôi trở thành
một người dưng, kẻ lạ. Thậm chí tôi cảm thấy
một nỗi nghi ngờ ập đến: rằng tôi đã bị dục vọng mình
đánh lừa, và với anh tôi đã luôn luôn là kẻ lạ.
Tôi vội chạy khỏi cái ngôi nhà gớm ghiếc của họ,
chạy đi trước khi Cơ đốc giáo của họ có thể bắt lấy,
có thể bóp méo cái ký ức của tôi về Myres.
1929
C. P. Cavafy, “Myris: Alexandria, A.D. 340,” C. P. Cavafy: Collected Poems – Revised Edition, trans. Edmund Keeley and Philip Sherrard (Princeton University Press, 1992).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.