Zbigniew Herbert (1924–1998) là nhà thơ người Ba Lan. Ông được trao giải nhà nước Áo cho văn chương châu Âu năm 1965, giải Herder năm 1973, và giải Jerusalem năm 1991.
Qua bảy ngọn núi biên giới
hàng rào thép gai của những con sông
và những khu rừng bị bắn
và những cây cầu bị treo cổ
ta đi –
qua những thác nước của những cầu thang
những cuộn xoáy của đôi cánh biển
và bầu trời ba rốc
tất tật đều sủi bọt các thiên thần
– tới mi
Jerusalem trong khung
ta đứng
trong vạt tầm ma rậm
của một chuyến du ngoạn
ở bờ của sợi dây tím
và đôi mắt
vậy là ta đã ở đây
mi thấy ta đã ở đây
ta đã không hy vọng
nhưng ta đã ở đây
cần mẫn mỉm cười
màu nhựa cây câm và lồi
như thể được dựng bằng các thấu kính
có một cảnh quan lõm làm nền
giữa màu đen của tấm lưng nàng
giống như trăng trong mây
và cái cây đầu tiên trong khu vực
là một khoảng trống lớn bọt ánh sáng
vậy là ta đã ở đây
đôi khi nó đã
đôi khi nó dường như đã
thôi đừng nghĩ đến
chỉ có nụ cười đều đặn của nàng
cái đầu một con lắc đứng yên
mắt nàng mơ đến vô cùng
nhưng ốc sên ngủ trong ánh mắt
vậy là ta đã ở đây
tất cả họ đáng lẽ sẽ đến
ta chỉ một mình
khi đã
không còn cử động được đầu
anh ấy nói
bao giờ chuyện này kết thúc
tôi sẽ đến Paris
giữa ngón thứ hai và ngón thứ ba
của bàn tay phải
một khoảng trống
ta đặt vào cái rãnh này
những vỏ sò rỗng của số phận
vậy là ta đã ở đây
ta đã ở đây
ép xuống sàn
đôi gót chân sống
một signora béo và không đẹp lắm
tóc xõa xuống những hòn đá khô
bị cắt lìa khỏi thịt của sự sống
bị bắt cóc khỏi nhà và lịch sử
với đôi tai đáng sợ bằng sáp
bị một chiếc khăn nhựa siết cổ
các khối rỗng thân nàng
đều được đính kim cương
giữa màu đen của tấm lưng nàng
và cái cây đầu tiên của đời tôi
nằm một thanh kiếm
một dốc đứng tan chảy
Zbigniew Herbert, “Mona Lisa,” Selected Poems, trans. Czesław Miłosz and Peter Dale Scott (Penguin, 1968).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.