Mahmoud Darwish sinh năm 1941 ở làng al-Birweh, Palestine. Ông rời Israel đến Moskva năm 1970 và sống lưu vong ở nhiều nơi, bao gồm Cairo, Beirut, và Paris, trước khi trở về Ramallah năm 1996. Tác giả của hơn hai mươi tập thơ, ông qua đời ở Houston năm 2008.
A
Ở Damascus,
bồ câu bay
sau hàng rào lụa
từng cặp…
từng đôi…
B
Ở Damascus:
tôi thấy toàn bộ ngôn ngữ của mình
được viết trên một hạt lúa mì
bằng cây kim của một người phụ nữ,
được tinh luyện bởi đa đa Lưỡng Hà
C
Ở Damascus:
tên của những con ngựa Ả Rập được thêu,
kể từ thời Jahili
và qua ngày phán xét
hoặc sau đó,
… bằng những sợi chỉ vàng
D
Ở Damascus:
bầu trời đi
chân trần trên các con đường xưa,
chân trần
vậy thì ích gì
sự mặc khải của thi nhân
và nhịp
và vần?
E
Ở Damascus:
kẻ lạ ngủ
trên bóng mình đứng
như một ngọn tháp trên chiếc giường của vĩnh cửu
không khao khát mảnh đất nào
hay bất kỳ ai
F
Ở Damascus:
thì hiện tại tiếp tục
các công việc Omeyyad của mình:
chúng ta bước tới ngày mai tự tin
vào mặt trời của ngày hôm qua.
Vĩnh cửu và chúng ta
các cư dân của nơi này!
G
Ở Damascus:
cuộc đối thoại tiếp diễn
giữa cây vĩ cầm và cây đàn oud
xung quanh câu hỏi về sự tồn tại
và xung quanh những cái kết:
khi một phụ nữ giết một người tình bội bạc
cô sẽ đến được Cây Lotos của Thiên đường!
H
Ở Damascus:
Youssef xé toạc
bằng cây sáo,
xương sườn của chàng
chẳng vì lý do gì
ngoài việc
trái tim chàng không ở bên chàng
I
Ở Damascus:
lời nói trở về nguồn cội,
nước:
thơ chẳng phải là thơ
văn chẳng phải là văn
và em nói: em sẽ không rời xa anh
nên hãy đưa em đến với anh
và hãy đưa em đi cùng anh!
J
Ở Damascus:
một con linh dương ngủ
bên một người phụ nữ
trên chiếc giường sương mai
đoạn người phụ nữ cởi váy
và đắp nó lên dòng Barada!
K
Ở Damascus:
một con chim mổ
những lúa mì còn sót
trên bàn tay tôi
và bỏ lại cho tôi một hạt duy nhất
để cho tôi thấy ngày mai của tôi
ngày mai!
L
Ở Damascus:
cây hoa nhài ve vãn tôi:
Đừng đi xa
mà hãy lần theo các dấu chân ta.
Nhưng khu vườn trở nên ghen tị:
Đừng đến gần
máu đêm trong vầng trăng ta
M
Ở Damascus:
tôi bầu bạn với giấc mơ nhẹ bâng của tôi
và cười hoa hạnh đào:
Hãy thực tế
để ta có thể nở hoa trở lại
quanh dòng nước của tên nàng
và hãy thực tế
để ta có thể đi qua giấc mơ nàng!
N
Ở Damascus:
tôi giới thiệu mình
với chính mình:
Ngay đây, dưới hai con mắt hạnh đào
chúng ta cùng bay như một cặp song sinh
và hoãn lại quá khứ chung
O
Ở Damascus:
lời nói dịu lại
và tôi nghe thấy tiếng máu
trong các ven cẩm thạch:
Hãy giành ta khỏi con trai ta
(nàng, người tù, nói với tôi)
hoặc hãy hóa đá cùng ta!
P
Ở Damascus:
tôi đếm xương sườn
và trả trái tim về bước chạy của nó
có lẽ người đã đưa tôi vào
cái bóng của nàng
đã giết tôi rồi
và tôi đã chẳng để ý…
Q
Ở Damascus:
kẻ lạ trả chiếc kiệu
lại cho đoàn lữ hành:
tôi sẽ không trả lại chiếc lều,
sẽ không treo cây ghi ta,
sau buổi tối nay,
lên cây vả của gia đình…
R
Ở Damascus:
các bài thơ trở nên trong suốt
chúng không cảm xúc
cũng không lý trí
chúng là những gì tiếng vọng nói
với tiếng vọng…
S
Ở Damascus:
vào buổi chiều, mây khô
rồi nó đào một cái giếng
cho mùa hè của những kẻ yêu nhau ở Qasioun,
và cây sáo hoàn thành cái thói quen của nó
là khao khát những gì nó đang có
rồi khóc lên trong vô vọng
T
Ở Damascus:
tôi viết trong sổ tay một phụ nữ:
Tất cả những gì trong em
của hoa thủy tiên
ham muốn em
và không hàng rào nào quanh em, bảo vệ em
khỏi màn đêm cám dỗ quá của em
U
Ở Damascus:
tôi thấy đêm Damascus dần dần,
dần dần phai nhạt
và các nữ thần của chúng ta nhiều lên
từng người một!
V
Ở Damascus:
người lữ hành hát thầm:
Ta sẽ trở về từ Syria
không sống
không chết
mà như những đám mây
cất đi gánh nặng của con bướm
trên tâm hồn phiêu bạc của ta
Mahmoud Darwish, “The Damascene Collar of the Dove,” The Butterfly’s Burden, trans. Fady Joudah (Copper Canyon Press, 2007).
Nguyễn Huy Hoàng dịch.