Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"

Mười ba bài thơ của Yehuda Amichai

Yehuda Amichai.jpg

Yehuda Amichai sinh năm 1924 ở Würzburg, Đức và cùng gia đình di cư về Palestine năm 1936. Là tác giả của nhiều tập thơ tiếng Hebrew, hai tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, ông được trao giải nhà nước Israel cho thơ năm 1982 và trở thành viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa Kỳ năm 1986. Ông sống Jerusalem cho đến khi qua đời năm 2000.

Thị trưởng

Thật buồn nếu làm
thị trưởng của Jerusalem—
thật khủng khiếp.
Làm sao họ có thể làm thị trưởng của một thành phố như vậy?
Anh ta có thể làm gì với nó?
Xây và xây và xây.

Và ban đêm đá của những ngọn núi bò xuống
và bao quanh những ngôi nhà đá,
như đàn sói bắt đầu tru lên với lũ chó,
đã trở thành nô lệ của con người.

Đường kính của quả bom

Đường kính của quả bom là ba mươi phân
và đường kính phạm vi hiệu quả là khoảng bảy mét,
với bốn người chết và mười một người bị thương.
Và xung quanh đó, trong một vòng tròn lớn hơn
của nỗi đau và thời gian, hai bệnh viện nằm phân tán
và một nghĩa địa. Nhưng cô gái trẻ
được chôn trong thành phố quê hương cô,
ở khoảng cách hơn một trăm cây số,
đã phóng to vòng tròn này đáng kể,
và người đàn ông cô đơn than khóc cho cái chết của cô,
ở bờ biển xa xôi của một đất nước bên kia đại dương
đưa cả thế giới vào vòng tròn đó.
Và tôi sẽ không nhắc đến tiếng tru của những đứa trẻ mồ côi
vọng đến ngôi Chúa và
xa hơn nữa, tạo ra
một vòng tròn không có kết thúc và không có Chúa.

Gần bức tường một ngôi nhà

Gần bức tường một ngôi nhà được sơn
trông cho giống đá,
tôi thấy những ảo tượng của Chúa.

Một đêm không ngủ cho người khác đau đầu
cho tôi những bông hoa
nở đẹp đẽ trong não.

Và người nào lạc lối như một con chó
sẽ được tìm thấy như một con người
và được đưa về nhà trở lại.

Tình yêu không phải là căn phòng cuối: còn những căn phòng khác
sau nó, toàn bộ chiều dài của cái hành lang
bất tận.

Đồ thất lạc

Từ thông báo trên báo và trên bảng tin
tôi tìm hiểu về những đồ thất lạc.
Đấy là cách mà tôi biết những gì người ta có
và những gì họ yêu.
Và khi đầu tôi gục xuống, mệt mỏi, trên tấm ngực đầy lông
tôi thấy mùi cha tôi ở đó
một lần nữa, sau nhiều năm.
Ký ức của tôi như một người đàn ông
bị cấm trở về Tiệp Khắc
hoặc sợ trở về Chilê.
Đôi lúc tôi lại thấy
căn phòng mái vòm trắng
với bức điện tín
trên bàn.

Quên một người

Quên một người giống như
quên tắt đèn ở sân sau
nên hôm sau nó sáng cả ngày.

Nhưng rồi cái ánh sáng ấy
là cái khiến ta nhớ lại.

Ô cửa sổ vĩnh cửu

Trong một khu vườn tôi từng nghe
một bài hát hay một phước lành cổ.

Và trên những đám cây dày
một ô cửa sổ luôn luôn sáng, trong ký ức
của gương mặt nhìn ra từ đó,
và gương mặt đó
cũng nằm trong ký ức của
một ô cửa sổ sáng khác.

Bài thơ vô tận

Trong một bảo tàng mới
có một giáo đường cũ.
Trong giáo đường
là tôi.
Trong tôi
tim tôi.
Trong tim tôi
một bảo tàng.
Trong bảo tàng,
một giáo đường,
trong nó
tôi,
trong tôi
tim tôi,
trong tim tôi
một bảo tàng

Tôi mất thẻ căn cước

Tôi mất thẻ căn cước.
Tôi phải viết lại câu chuyện đời mình
viết đi viết lại cho nhiều văn phòng, một bản cho Chúa
và một bản cho quỷ.
Tôi còn nhớ bức ảnh chụp ba mươi năm trước
ở một khúc giao gió bỏng ở Negev.
Ngày ấy mắt tôi là những nhà tiên tri, nhưng cơ thể tôi không biết
những gì nó sắp trải qua hay nơi mà nó thuộc về.

Bạn thường nói, “Chính là đây,
nó xảy ra ở ngay đây,” nhưng nó không phải là đây
chỉ là bạn nghĩ vậy và sống trong sự sai lầm,
một sai lầm có sự vĩnh cửu lớn hơn
vĩnh cửu của sự thật.

Và năm tháng qua đi, cuộc đời tôi cứ đầy thêm những cái tên
như những nghĩa trang bị bỏ rơi
hoặc như một lớp sử vắng
hoặc như một cuốn danh bạ ở một thành phố lạ.
Và cái chết là khi ai đó đằng sau bạn cứ gọi
và gọi
và bạn không còn ngoái lại để xem
ai.

Gần như một bài thơ tình

Nếu cha mẹ anh và cha mẹ em
không di cư sang đất Israel
năm 1936,
thì chúng ta đã không gặp nhau năm 1944
ở đó. Trên con dốc ở Auschwitz.
Anh hai mươi,
em năm.
Mameh em đâu,
tateh em đâu?
Em tên gì?
Hanaleh.

Cố nhớ lấy vài chi tiết

Cố nhớ lấy vài chi tiết. Nhớ quần áo
của người mình yêu
để vào cái ngày thảm họa bạn có thể nói: lần cuối cùng nhìn thấy
là mặc thế này thế này, áo khoác nâu, mũ trắng.
Cố nhớ lấy vài chi tiết. Vì họ không có mặt
và linh hồn họ ẩn giấu và họ khóc
giống hệt như họ cười,
và họ im lặng và họ hét đến cùng độ cao
và nhiệt độ cơ thể họ 36,5 đến 40 độ
và họ không có cuộc sống bên ngoài không gian hẹp này
và họ không có tượng khắc, không chân dung, không ký ức
và họ có cốc giấy trong ngày hoan hỉ
và đĩa giấy dùng một lần.

Cố nhớ lấy vài chi tiết. Vì thế giới
được lấp đầy bằng những người bị xé toạc từ giấc ngủ
mà không ai hàn gắn vết rách,
và không giống thú hoang họ sống
mỗi người trong nơi ẩn náu cô đơn của mình và họ chết
cùng nhau trên chiến trường
và trong bệnh viện.
Và trái đất sẽ nuốt tất cả bọn họ,
thiện và ác như nhau, như những tín đồ của Korah,
tất cả trong cuộc nổi loạn chống lại cái chết,
miệng mở cho đến giây phút cuối cùng,
và lời chúc và lời nguyền là một tiếng tru
duy nhất. Cố, cố
nhớ lấy vài chi tiết.

Trong quả táo

Em đến thăm tôi trong quả táo.
Cùng nhau chúng ta có thể nghe thấy con dao
gọt vòng quanh vòng quanh chúng ta, cẩn thận,
để vỏ không đứt.

Em nói với tôi. Tôi tin giọng em
vì nó có những khối u đau đớn trong mình
cái cách mật ong thật
có những khối u sáp từ tổ ong.

Tôi chạm môi em bằng những ngón tay mình:
đó cũng là một cử chỉ tiên tri.
Và môi em đỏ, cái cách một cánh đồng cháy
màu đen.
Tất cả đều thật.

Em đến thăm tôi trong quả táo
và em sẽ ở lại với tôi trong quả táo
cho đến khi con dao xong việc.

Tôi biết một người đàn ông

Tôi biết một người đàn ông
chụp khung cảnh anh thấy
từ cửa sổ của căn phòng nơi anh làm tình
mà không chụp gương mặt người đàn bà anh yêu ở đấy.

Biển và bờ

Biển và bờ luôn luôn ở cạnh nhau.
Cả hai muốn học nói, học nói
chỉ một từ. Biển muốn nói “bờ”
còn bờ muốn nói “biển.” Chúng tiến gần,
hàng triệu năm, đến nói, đến nói
cái từ duy nhất ấy. Khi biển nói “bờ”
và bờ nói “biển,”
sự cứu chuộc sẽ đến với thế giới,
và thế giới sẽ trở lại hỗn mang.

***

Theo thứ tự: Yehuda Amichai, “Mayor” (p. 35); “The Diameter of the Bomb” (p. 118); “Near the Wall of a House” (p. 126); “Lost Objects” (p. 128); “Forgetting Someone” (p. 128); “An Eternal Window” (p. 130); “Poem Without an End” (p. 142); “I Lost My Identity Card” (p. 148); “Almost a Love Poem” (p. 153); “Try to Remember Some Details” (p. 158); “Inside the Apple” (p. 164); “I Know a Man” (p. 173); “The Sea and the Shore” (p. 176), The Selected Poetry Of Yehuda Amichai, ed. and trans. Chana Bloch and Stephen Mitchell, with a New Foreword by C. K. Williams (University of California Press, 2013).

Copyright © 2013 by Chana Bloch and Stephen Mitchell | Nguyễn Huy Hoàng dịch.

One comment on “Mười ba bài thơ của Yehuda Amichai

  1. genderchats
    November 8, 2016

    Mình thích nhất bài “Tôi biết một người đàn ông” và “quên”.

Leave a comment

Information

This entry was posted on November 8, 2016 by in Thơ and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.