Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"

“Bài sonnet, với bầy” – Sherman Alexie

Pride of Baghdad.jpg

From Pride of Baghdad by Brian K. Vaughan & Niko Henrichon

Sherman Alexie (1966–) là nhà văn và nhà thơ người Mỹ Anh Điêng. Anh được trao giải PEN/Hemingway năm 1993, giải Sách Mỹ năm 1996, giải PEN/Malamud năm 2001, giải Sách Quốc gia Mỹ cho tác phẩm văn chương trẻ năm 2007, và giải PEN/Faulkner năm 2010.

Bài sonnet, với bầy

Lấy cảm hứng từ cuốn Pride of Baghdad của Brian K. Vaughan & Niko Henrichon

1. Năm 2013, trong Chiến tranh Iraq, một bầy sư tử xổng khỏi Vườn thú Baghdad trong một cuộc không kích của Mỹ. 2. Hoang mang, bị thương, bất ngờ được tự do, bầy sư tử lang thang trên phố tìm thức ăn và nơi an toàn. 3. Tưởng tượng, chỉ một lúc, bạn là một người dân Iraq sống ở Baghdad. Bạn đang chạy đến nơi trú ẩn trong lúc những chiếc máy bay ném bom của Mỹ, như những con dực long bằng thép, gầm rú trên đầu. Bạn đang chạy đến nơi trú ẩn trong lúc một số đồng bào của bạn, có vũ trang và đầy giận dữ, bắn súng trường, súng bắn rốc két, và súng cối lên trời. Bạn đang chạy đến nơi trú ẩn trong lúc người ta chết đầy quanh bạn. Đấy là chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh. Rồi bạn rẽ vào một góc và thấy một bầy sư tử đang tiến về phía bạn. 4. Giờ, tưởng tượng bạn là một con sư tử chưa bao giờ đi săn. Chưa bao giờ bước ra ngoài một cái lồng. Được nâng niu và cho ăn suốt cả cuộc đời. Và giờ thế giới của bạn đang nổ tung quanh bạn. Đấy là chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh. Rồi bạn rẽ vào một góc và thấy một bầy xe tăng đang tiến về phía bạn. 5. Cười cũng được. Cười vào bi kịch lúc nào cũng là được. Nếu sư tử biết cười thì tôi tin những con sư tử Baghdad ấy đã cười vào cái thế khó xử của chúng. Trong lúc chúng nhìn thành phố bốc cháy và sụp đổ, tôi chắc một nàng sư tử đã quay sang nói với một chàng sư tử, “Thế anh còn nghĩ mình là Chúa tể rừng xanh nữa hay thôi?” 6. Tôi không biết bầy sư tử có giết chết ai trong lúc lang thang trên phố hay không. 7. Nhưng tôi đoán chúng đã rất sợ. Tôi chắc chúng chỉ biết xem con người như những người trông coi vườn thú, chứ không phải đồ ăn. 8. Dù sao đi nữa, bầy sư tử đói cuối cùng đã bị lính Mỹ bắn chết trên đường tuần tra. 9. Đấy là một câu chuyện buồn và khủng khiếp, phải, nhưng đấy là chiến tranh. Và chiến tranh thì ở mọi nơi. Và ở mọi nơi, có những bầy sư tử đói lang thang trên phố. Đó là những bầy sư tử đói lang thang trong trái tim bạn. 10. Cũng có thể là bạn sẽ nghĩ tôi đang dùng sư tử đói làm ẩn dụ cho những người vô gia cư, nhưng không. Người vô gia cư đã được dùng quá thường xuyên làm cái đích cho phép ẩn dụ. Tôi đang dùng những con sư tử đói ấy làm một phép ẩn dụ đơn giản cho cơn đói. Mọi cơn đói của chúng ta. 11. Đói ăn. Đói tình. Đói đức tin. Đói linh hồn. 12. Ai trong chúng ta chưa từng bị đói? Ai trong chúng ta chưa từng dễ bị tổn thương? Ai trong chúng ta chưa từng là một con sư tử đói? Ai trong chúng ta chưa từng là một con thú săn mồi? Ai trong chúng ta chưa từng là một kẻ ăn thịt? 13. Người ta nói Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa. Nhưng nếu Chúa cũng tạo ra sư tử theo hình ảnh của Chúa thì sao? Nếu Chúa tạo ra cơn đói theo hình ảnh của Chúa thì sao? Nếu Chúa là cơn đói thì sao? Nói tôi nghe, làm sao bạn cầu nguyện trước cơn đói? Làm sao bạn hỏi xin phước lành của cơn đói? Làm sao cơn đói dạy bạn cách tha thứ? Làm sao cơn đói dạy bạn cách yêu thương? 14. Nhìn ra cửa sổ. Tất cả đều là cơn đói và chiến tranh. Cơn đói và chiến tranh. Cơn đói và chiến tranh. Và bầy sư tử vô tận.

Sherman Alexie, “Sonnet, with Pride,” What I’ve Stolen, What I’ve Earned (Hanging Loose Press, 2014). This poem was also included in The Best American Poetry 2014 (Scribner, 2014).

Copyright © 2013 by Sherman Alexie | Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Leave a comment

Information

This entry was posted on April 8, 2017 by in Thơ and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.