Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Nếu ông chưa đọc các nhà thơ Slavơ
thì càng tốt. Chẳng có gì ở đó để tìm kiếm
cho một kẻ lang thang gốc Scotch-Irish. Họ sống trong một tuổi thơ
kéo dài từ thời đại này sang thời đại khác. Mặt trời đối với họ
là khuôn mặt hồng hào của một người nông dân, trăng ngó qua mây
và Dải Ngân hà làm họ vui mừng như một con đường bạch dương.
Họ khao khát cái Vương quốc luôn gần gũi,
luôn ở ngay trong tầm tay. Rồi, dưới những cây táo
các thiên thần mặc vải lanh tự dệt sẽ đến, rẽ các cành
và trên chiếc khăn trải bàn kolkhoz trắng
sự thân ái và tình cảm sẽ ăn mừng (đôi khi ngã xuống đất).
Còn ông là từ những đảo đá sóng vỗ. Từ những truông
nơi chôn một chiến binh họ đập vỡ xương anh
để anh không ám ảnh người sống. Từ màn đêm biển
mà tổ tiên ông đã kéo qua mình, trong im lặng.
Trên đầu ông không khuôn mặt của mặt trời hay trăng,
chỉ có những xung động của các thiên hà, bạo lực
bất biến của những khởi đầu mới, của hủy diệt mới.
Cả đời lắng nghe đại dương. Những con khủng long đen
lội nơi một vùng cỏ dại phát quang màu tím
trồi lên và sụt xuống trên sóng, như trong mơ. Và Agamemnon
dong buồm trên độ sâu sôi sục đến các bậc cung điện
để máu mình đổ lên đá cẩm thạch. Cho đến khi nhân loại đi qua
và đại dương sẽ tiếp tục đập lên quả đất thuần, đầy đá.
Môi mỏng, mắt xanh, không ân sủng hay hy vọng,
trước Chúa Đấng Khủng Khiếp, cơ thể của thế giới.
Không ai nghe những lời cầu nguyện. Đá bazan và đá granit.
Phía trên chúng, một con chim săn mồi. Vẻ đẹp duy nhất.
Tôi với ông có sự gì chăng? Từ những lối đi bộ trong vườn cây ăn quả,
từ một dàn hợp xướng ngây ngô và ánh lấp lánh của một mặt nhật,
từ những luống vân hương, những ngọn đồi bên sông, những cuốn sách
trong đó một người Litva sốt sắng tuyên bố tình anh em, tôi đến.
Ôi những niềm an ủi của người phàm, những tín điều vô ích.
Và ông đã không biết những gì tôi biết. Trái đất dạy
nhiều hơn sự trần trụi của các nguyên tố. Không ai tự cho mình đôi mắt
của một vị thần mà không bị trừng phạt. Thật dũng cảm, trong
một khoảng trống, ông đã hiến tế cho các demon: có Wotan và Thor,
tiếng rít của các Erinys trong không trung, nỗi kinh hoàng của bầy chó
khi Hekate đến gần với đoàn tùy tùng của người chết.
Tốt hơn là khắc mặt trời và mặt trăng lên các khớp nối thập tự giá
như người ta làm ở quận của tôi. Cho bạch dương và lãnh sam
đặt những cái tên nữ. Cầu xin sự bảo vệ
trước thế lực lặng câm và xảo quyệt
thì tốt hơn là bố cáo, như ông đã làm, một thứ phi nhân.
Berkeley, 1963
Czesław Miłosz, “To Robinson Jeffers,” trans. author and Richard Lourie, Visions from San Francisco Bay (Farrar, Straus and Giroux, 1975).
Copyright © 1963 by Czesław Miłosz | Nguyễn Huy Hoàng dịch.