Nguyễn Huy Hoàng

the star is fading

Truyện ngắn: “The Journey to Galway” – Colm Tóibín

Colm Toibin.jpg

Colm Tóibín là nhà văn người Ireland và giáo sư nhân văn học tại Đại học Columbia. Truyện ngắn “The Journey to Galway” được in trong tập All Over Ireland: New Irish Short Stories, ed. Deirdre Madden (London: Faber and Faber, 2015).

Hành trình tới Galway

Bà nhớ lại vẻ im lặng bất thường sáng hôm ấy – vẻ tĩnh lặng trong những cái cây và trong sân trại, và vẻ chết chóc trong chính ngôi nhà, không âm thanh vọng lên từ bếp, và không ai lên xuống cầu thang. Nhưng sau đó bà tự hỏi vẻ im lặng này có phải là thật hay không, hay chỉ đơn thuần là thứ gì đó bà tưởng tượng ra sau này. Bà không chắc có phải tin tức ấy đã thực sự làm thay đổi ký ức của bà về những giờ trước đó hay không. Đôi lúc bà nghĩ điều đó không mấy quan trọng, nhưng trong những lúc khác, nhất là lúc bà tỉnh dậy trước ánh nắng sớm và tiếng chim buổi bình minh, những chi tiết của cách mà tin tức về cái chết của Robert đến, và chính xác là khoảng thời gian trước đó, lại gắn liền với cuộc đời bà hệt như hơi thở của bà, hay trái tim bà.

Nó đến với bà như một câu chuyện đã được kể và kể lại thay vì như một thực tế phũ phàng, như thể đặt nó vào thời gian và nhớ lại cách tin tức lan đến sẽ làm mềm đi những gì đã diễn ra, xoa dịu nó, gạt bỏ nó. Những chi tiết của cuộc hành trình tới Galway để báo tin cho Margaret, chẳng hạn, và những điều diễn ra trong tâm trí bà trên chiếc xe lửa chậm ấy. Hoặc nơi bà đang ngồi khi lời nhắn đến, và những điều diễn ra trong tâm trí bà trong những giây trước khi bà nhìn thấy bức điện.

Bà nằm trên giường mấy buổi sáng không ngừng nhớ lại tất cả, biết rằng bà sẽ tiếp tục làm như vậy cho đến cuối đời và không điều gì bà có thể làm có thể khiến điều đó thay đổi. Với bà, có một đường ranh giới giữa khoảng thời gian trước khi bà biết con trai mình đã qua đời và khoảng thời gian sau đó. Trong khoảng thời gian trước đó, bà đã tự hỏi, nếu tin dữ đến, bà sẽ ở đâu, bà sẽ ở phòng nào, nó sẽ đến vào lúc nào trong ngày. Bà thậm chí còn hình dung cảnh bà nhận tin đến, gương mặt bà trong cơn sốc, giọng bà thổn thức. Và mỗi tối, khi bà bước lên lầu đi ngủ, bà đánh dấu ngày vừa trôi qua như một ngày nữa đã đến rồi đi mà không có tin đến và bởi vậy là một ngày để tận hưởng, để biết ơn. Những suy nghĩ này dường như khác với những suy nghĩ sau này như đất liền khác đại dương, như không khí khác nước, như một cái chết trong vở kịch ở rạp hát khác một thi thể thực sự đang nằm trong vũng máu trên đường phố thực sự bên ngoài.

Khi Robert viết những lá thư, chúng đã bị ngấu nghiến. Bà biết có nhiều điều anh không thể nói, điều ấy có nghĩa là một cụm từ lạc điệu cũng mang sức nặng, có lẽ mang cả những ý nghĩa ẩn mình. Nhưng nhiều đến đâu thì thường không rõ bởi những lá thư của anh dường như được viết trong cơn vội vã; có lẽ những cụm từ anh định viết không có ý nghĩa nào khác ngoài những gì chúng thể hiện. Khi anh viết: “Có những khi tỉnh giấc con có cảm giác như thể một phần trong con đang gào thét ở nơi nào khác,” thì chuyện anh có ý định cảnh báo bà hay không, anh có ý định cho bà biết anh đã sợ hãi nhường nào bất chấp những nỗ lực giữ lòng dũng cảm, và, là phi công trong một cuộc chiến, có ý định cho bà biết anh phải chung sống và phải che giấu bao nhiêu nỗi sợ thường nhật hay không, cũng gần như không quan trọng. Nơi nào khác mà anh gào thét, bà nghĩ, chính là ở đây, nơi bà đang ở, căn nhà anh sở hữu, nơi cha và ông nội anh từng sở hữu. Nếu tiếng gào thét bị giấu đi, thì chính là nó bị giấu ở đây và trong những cánh rừng và cánh đồng quanh đây, và ý nghĩ đó gần như giúp bà an lòng khi bà lấy lá thư đọc đi đọc lại.

Về sau bà nhận ra những gì anh làm trong một vài năm anh làm phi công chiến đấu chỉ đơn thuần là một phiên bản phóng đại của những gì tất cả chúng ta vẫn làm khi chúng ta sống: chúng ta vênh vang, chúng ta giả bộ như không có mối nguy hiểm thực sự nào đang tiến đến, chúng ta nói như thể kẻ thù đang trốn chạy, hoặc nằm trong tầm kiểm soát. Nhưng khi thời gian trôi qua, nó kéo chúng ta theo cho tới khi thời gian dành cho giả bộ đã hết và cơ thể nằm mỏi mệt. Khi bà thấy anh ở London, và sau đó khi anh về nhà ở Coole, bà nhận ra vẻ vênh vang. Bà đảm bảo bà không tỏ ra mình luôn để ý mọi lúc để có cơ hội xen vào, không tỏ ra rằng phần lớn điều đó với bà, một người biết anh, trông gần với ngang tàng hơn là dũng cảm. Bà hy vọng ít nhất cũng có lúc anh tin vào dáng điệu của chính anh, nhưng bà tự hỏi khi màn đêm buông xuống và chỉ còn mình anh, anh biết chừng nào, anh đoán trước được chừng nào, và sự yên bình mà anh có ít chừng nào khi viễn cảnh của việc chỉ còn lại một mình và bất lực trong chiếc máy bay đang cháy cách mặt đất hàng ngàn mét dần xâm chiếm anh trong thời gian anh thức cũng nhiều như trong những giấc mơ.

Khi bà viết thư cho anh, bà cũng nghĩ về cơ hội. Lá thư này, bà tưởng tượng trong lúc viết cho anh, có thể là lời cuối cùng anh đọc được từ bà, hoặc cũng có thể là lá thư từ bà mà anh sẽ không bao giờ được đọc; nó sẽ đến quá trễ và nó sẽ bị gửi trả. Nó sẽ là lá thư đặc biệt, được viết trong hy vọng, có thể trong cả tự tin, được viết để rồi được đọc bởi một người còn sống, một người có thể nhận ra chữ viết của bà, và biết rằng khi bà nhắc đến Margaret và lũ trẻ, bà muốn nói tới vợ anh và Richard và Catherine và Anne. Những điều này sẽ không cần được viết rõ ra cho anh, bởi chúng được viết ra trong tinh thần gấp gáp của sự sống, nhưng có thể chúng sẽ không bao giờ được đọc như vậy, chúng có thể sẽ trở thành những lời cuối cùng mà không biết trước, hoặc có thể là những lời đã đến quá muộn, hoặc có thể là những lời thông thường, bị bỏ qua, bị cho là lẽ thường tình.

Những ngày trước khi bà nghe tin dường như trôi qua với nhịp độ chậm và trú lại trong ký ức bà với sự sắc nét và đeo bám. Bà đã đến Dublin, dừng chân tại ngôi nhà của chị gái bà nơi Margaret và lũ trẻ ở. Bà đã phát biểu trong một cuộc họp ở tòa thị chính để kêu gọi đưa những bức vẽ từng thuộc về cháu trai Hugh Lane của bà trở về Ireland, như anh luôn muốn, hay chí ít là muốn lúc cuối đời, một cuộc đời cũng bị chiến tranh cắt ngắn. Cuộc họp rất đông và người ta nhiệt tình về những bức tranh và tầm quan trọng của chúng đối với Dublin. Những bức tranh này là những thứ có thể quan trọng.

Từ Dublin bà viết cho Robert, nói rằng nếu những bức tranh trở về bà sẽ cảm thấy “Giờ đây xin Người cho bầy tôi được qua đời bình an.”[1] Bà không chắc mình có thật lòng vậy không, nhưng anh có thể sẽ nhận ra vẻ hài hước của nó trộn lẫn với ý nghĩa của cuộc đấu tranh này như cuộc cuối cùng bà còn sức lực. Rồi bà đưa tin cho anh về những cái cây mà bà đang trồng, những hàng lạc diệp tùng ngay ngắn với những lạch cây du và cây phong âu, rồi đến một vài cây dương thùy chi và đậu chổi. Và bà nói thêm những điều bà nghĩ có thể sẽ làm anh vui lòng về lũ trẻ mà không khiến anh quá buồn, viết về Richard với vẻ phổng phao ra dáng một cậu học trò, sau đó kết thúc bằng suy nghĩ về một thế giới sẽ hạnh phúc ra sao khi “có con trở về và cuộc chiến chấm dứt!” Bà kết thư: “Chúa ban phước cho con, con trai.” Bà không biết cậu đã qua đời được bốn ngày.

Khi trở về từ Dublin bà tới cánh rừng nơi bà đang trồng và bực bội khi mấy cây kèo đã bị đem đi và khó chịu cả với những người đàn ông đang xẻ tần bì hiện ra trong tầm mắt sau khi họ đốn vân sam. Bà tưởng tượng Robert trở về nhà và nhìn thấy những cây tần bì và những ngọn đồi xanh thẫm giữa họ và nhìn thấy cả bụi đậu chổi và những cây hoa.

Bà quyết định sẽ dành cả ngày hôm sau trong rừng để bù đắp cho sự vắng mặt của mình, đảm bảo mọi thứ được thực hiện đúng theo kế hoạch. Buổi sáng bà yêu cầu người hầu làm một chiếc sandwich và chuẩn bị xe lừa sẵn sàng và, trong khi chờ đợi, bà quyết định vào phòng khách viết một lá thư, một lá thư khẩn, hoặc có vẻ khẩn trong buổi sáng hôm ấy. Ngày của bà trước mắt đã được lên kế hoạch đầy đủ, và cũng dễ tưởng tượng nó có thể đã trôi qua như thế nào. Bà có thể đã bọc mình cẩn thận khỏi cái lạnh; bà có thể đã quyết đoán, suy tính về cảnh vật trong cánh rừng trông sẽ ra sao sau một năm, rồi sau 20 năm, rồi sau 50 năm khi những người khác, những người còn chưa ra đời, sẽ dạo bước ở đó. Ngày hôm ấy có thể đã trôi qua một cách dễ dàng như vậy, và, khi bà nói ra những mong muốn của mình và theo dõi công việc diễn ra, nó có thể đã làm bà hài lòng.

Bà đang ngồi trên bàn làm việc khi cô hầu Marian bước vào rất chậm. Khi nhìn lên bà thấy Marian đang khóc. Cô cầm một bức điện tín. Nhưng cũng đã có nhiều bức điện trước đó. Đã hai lần kể từ chuyến thăm cuối cùng tới London bà nhận được điện tín và chúng là từ những người bạn về việc hủy bỏ một số công việc. Marian có thể đã dễ dàng cho rằng bức điện đồng nghĩa với tin dữ. Nhưng khi bà nhận bức điện và nhìn xuống và thấy nó không gửi tới bà mà tới Bà Gregory, tới Margaret, vợ Robert, bà biết nó đưa tin về cái chết của Robert, nó chỉ đơn giản như thế, Margaret mới là người họ nên gửi nó tới. Những từ đầu tiên bà thấy là “tử trận”rồi ở trên cùng là “Vô cùng thương tiếc.”

Bà quay sang Marian. “Ta nói với Margaret thế nào đây? Ai sẽ nói cho con bé? Ai có thể tới Galway báo tin cho nó?” Bà gượng đứng lên nhưng bà không thể. Bà nhận ra bà không được khóc bây giờ hay nghĩ về bản thân bà. Bà phải tập trung tâm trí vào một điều – vào khung cảnh bà chứng kiến ít ngày trước đó, Margaret và lũ trẻ ở với chị gái bà, không khí dễ chịu và bình an trong ngôi nhà bất chấp sự lo lắng. Giờ đây nó sắp bị phá vỡ. Ai sẽ phá vỡ nó? Bà tự hỏi liệu mình có thể gửi Marian đi hay không và liệu Marian có thể trao cho Margaret bức điện như cô đã trao cho bà hay không. Bà bảo Marian gọi xe có thể đến ga tàu ở Gort.

Bà lên lầu và chuẩn bị một số thứ cho cuộc hành trình, thậm chí còn thay cả bộ trang phục như thể bà đang mặc gì là điều quan trọng. Nhưng thời gian trôi chậm lại khi bà lựa chọn. Thời gian trôi chậm lại khi bà trút bộ váy kia xuống và mặc bộ này lên rồi ngắm mình trong gương và đảm bảo mình không bỏ quên điều gì. Có thể xe ngựa đang đợi. Bà tự hỏi còn điều gì bà cần làm trong căn phòng ngủ này hay không, nhưng không còn gì. Bà đang cầm bức điện trong tay, và đó thực sự là tất cả những gì bà cần. Bà sẽ phải đưa nó cho Margaret. Có thể đó là điều bà sẽ làm, không nói gì cả, chỉ cần đưa cho con bé mảnh giấy.

Khi bước về phía con tàu bà thấy Frank, anh trai bà, đang ngồi bên cửa sổ một toa và ra hiệu cho bà đến ngồi cùng ông. Bà nhìn ông rồi quay đi và bước tiếp, đi ngược phía ông. Bà không muốn có ông đi cùng. Bà không thể nói chuyện. Bà tới một toa xe khác nơi đang có một người phụ nữ, một người lạ. Trong lúc ngồi xuống, bà cố gắng hình dung khung cảnh ở Galway, cảnh bà tới, bà cố gắng tưởng tượng bà sẽ sử dụng những từ ngữ nào khi bà được hỏi vì sao bà tới. Bà cúi đầu.

Ở một trong những trạm dừng khi Frank bước đến cửa sổ chỗ bà bà đã cố gắng nói cho ông biết, nhưng nhận ra bà không thể nói mà thay vào đó chỉ giơ ra bức điện bà đang nắm trong tay. Trong một giây bà nhận ra giá như bà có thứ gì khác trong tay thì điều này có thể không là gì cả, rằng bức điện chính là thứ đang nhấn chìm bà xuống. Frank nói nhẹ nhàng. “Anh biết chuyện rồi,” ông nói. Ông đoán được từ gương mặt bà có điều gì đó khủng khiếp đã xảy ra; khi ông cho người tới hỏi lái tàu, điều tồi tệ nhất được xác nhận cho ông.

Trong lúc xe lửa đi tiếp, bà khóc, nhưng không nhiều, ý thức được người phụ nữ còn lại, người lạ, đang ngồi đối diện bà. Bà ép mình ngồi thẳng lưng và tự trấn an. Vậy đây là thứ mà cuộc đời Robert dẫn đến, cái chết! Nó như một mũi tên bắn trúng đích. Giờ đây, hay trong tương lai, chuyện Robert đã tàn nhẫn và vô tâm thế nào trong một hai năm trước khi anh nhập ngũ không còn quan trọng. Không cần phải đánh giá anh thêm nữa. Mà bà sẽ nhớ về anh khi anh còn là một cậu bé, hay là một chàng trai trẻ mà bà tự hào. Một người dũng cảm và tài năng, đầy lòng can đảm. Cái chết của anh đồng nghĩa với việc bà không còn phải đánh giá anh thêm nữa. Cái chết sẽ đơn giản hóa anh và đó ít nhất cũng là điều gì đó có ý nghĩa. Margaret có thể tiếc thương anh, hay ý niệm nào đó về anh, và quên đi những gì anh đã làm, quên đi việc anh, trong thời gian trước khi nhập ngũ, dường như đã muốn cho cô biết rằng anh đã yêu bạn thân nhất của cô ra sao. Trong thời gian đó anh dường như thích thú với ý tưởng Margaret biết anh và bạn cô đã trở thành tình nhân.

Có lẽ tàn nhẫn với Margaret là điều dễ dàng, hoặc quá hấp dẫn; bà sẽ, bà nghĩ trong lúc con tàu đi tới Galway, tự mình tìm hiểu sớm thôi bởi Margaret sẽ thừa hưởng mọi thứ, căn nhà, mảnh đất. Sẽ có một cuộc đấu tranh. Robert giờ đang ở một nơi mà những cuộc đấu tranh như vậy đã không còn quan trọng. Bà thổn thức trong chốc lát khi khuôn mặt Robert xuất hiện trước mắt bà cùng với ý nghĩ cơ thể anh đã bị thiêu cháy và có thể anh đã phải chịu đau đớn tột cùng khi chiếc máy bay rơi.

Đúng, bà nghĩ, tham gia cuộc chiến đã giải quyết được nhiều điều, nó để mọi thứ lại trong trì trệ, nó đồng nghĩa với việc mọi cuộc tranh luận được hoãn lại, nó khiến thỏa hiệp là bất khả, nhưng khi giải quyết những điều nó gây ra, nó đã giải quyết quá nhiều. Nó đã giải quyết mọi thứ đến mức không còn gì ở lại. Mọi suy nghĩ thường nhật của họ, mọi khác biệt giữa họ, mọi kiến thức của họ về nhau, giờ đây không là gì hết và sẽ mãi mãi không là gì hết.

Bất chấp những gì đã diễn ra, Margaret vẫn muốn anh trở về. Nhưng anh sẽ không trở về; anh sẽ không già đi, sẽ không sống để hối tiếc bất cứ điều gì, hay để được tha thứ. Trận chiến đã trao cho anh sự đơn giản, cũng như nó đã trao cho những người khác, cho anh tránh phải đối mặt với sự phức tạp của riêng mình. Cái chết, tuy nhiên, sẽ chẳng cho anh bất cứ điều gì. Từ giờ trở đi, tất cả là sự vắng mặt. Đối với bà, mọi thứ bà làm hoặc nói trong tương lai sẽ là một cách để đánh lạc hướng bà khỏi thực tế đơn giản ảm đạm rằng con trai bà đã hy sinh trong cuộc chiến, trong năm cuối cùng của cuộc chiến. Gần như không còn điều gì khác cần nói; diễn biến của những gì đã diễn ra được tóm gọn lại trong một bức điện tín, bức điện mà bà vẫn nắm trong tay.

Và anh đã hy sinh trong bộ quân phục Anh Quốc, bộ quân phục ngày càng có vẻ là quân phục của một đất nước khác. Bằng cách gia nhập quân đội Anh, anh đã là con trai của cha anh, anh đã theo bước những người anh em họ. Anh đã không theo bước bà, và bà cũng không đòi hỏi anh làm như vậy. Giờ đây bà tự hỏi có phải anh và những người như anh, những người khác đã hy sinh cho giấc mơ của đế chế này, cho cuộc xung đột lớn và trừu tượng giữa các quốc gia này, sẽ thuộc về quá khứ hay không, liệu họ sẽ không trở thành những cái bóng tan dần vào những cái bóng lớn hơn và tối hơn hay có. Tầng lớp họ sẽ không thống trị một Ireland của tương lai, bà chắc chắn điều đó. Bà bắt đầu tưởng tượng mọi chuyện sẽ ra sao nếu bà đang ngồi trên con tàu tới Dubin để ở lại cùng anh trong đêm trước khi anh bị hành quyết, nếu anh tham gia cuộc nổi dậy ở Dublin.

Bà nghĩ bà sẽ tự hào biết bao nếu ở trên chuyến tàu đó, sẽ có những người đi cùng cảm thấy phấn khởi trước sự có mặt của bà như thế nào. Nhưng mọi chuyện rồi cũng kết thúc trong cùng một cách. Nó sẽ kết thúc trong cái chết, nó sẽ kết thúc trong ba đứa trẻ mồ côi cha, nó sẽ kết thúc trong một tương lai mà Robert chỉ còn là cái tên và ký ức. Anh sẽ không bao giờ bước vào một căn phòng lần nữa. Lý tưởng nào anh chiến đấu cho, hay động cơ nào giục anh nhập ngũ, gần như không quan trọng. Mọi chuyện đã chấm dứt; anh đã bị giết.

Bà cảm thấy nhẹ nhõm khi Frank vẫn giữ khoảng cách với bà khi bà đổi tàu tới Galway, nhẹ nhõm khi Frank không cùng đi tới Galway. Bà nhìn quanh tìm Daly, người gác tàu bà biết. Có lẽ ai đó đã báo tin cho ông. Nhưng không có dấu hiệu nào của ông. Bà vui mừng khi không người lạ nào gần bà đoán được. Đó là một ngày bình thường đối với họ; có lẽ có sự an ủi trong điều đó, nhưng nó không phải là sự an ủi tồn tại được lâu. Khi tàu đến bà ngồi một mình và chỉ mong rằng nó sẽ đi thật chậm, hoặc có thể nó sẽ dừng lại ở đâu đó một lúc.

Trong tâm trí Margaret, bà nghĩ, Robert còn sống. Có thể điều đó có ý nghĩa nào đó; nó cho Robert thêm một khoảng thời gian kỳ lạ. Mặc dù bà biết ý tưởng đó thật ngu ngốc, nó giúp bà nhưng cũng làm tăng nỗi sợ của bà. Bà đang đi về phía tây như chính cái chết tàn nhẫn, bà nghĩ. Bà là người biết tin. Chừng nào bà chưa xuất hiện ở ngưỡng cửa căn nhà đó, chừng đó còn chưa có cái chết. Nhưng một khi bà đã xuất hiện, cái chết sẽ sống trong căn nhà đó. Sẽ không có gì khác ngoại trừ cái chết. Bà mang theo cái chết bên mình, bà nghĩ, như bà đã từng mang theo sự sống.

Sau này, mỗi suy nghĩ bà có trên con tàu đó đều ở lại với bà như thể bà đã lập tức ghi lại từng suy nghĩ một. Nhưng bà không nhớ rõ phần tiếp theo. Bà bước từ ánh sáng ban ngày vào giấc mơ trong lúc bà rời khỏi con tàu ngày hôm ấy. Trời đã tối. Bà bắt một chiếc ô tô chạy qua thành phố, hay chí ít chắc hẳn bà đã làm thế, và họ đến căn nhà. Bà còn nhớ khoảnh khắc bà trả tiền vé cho người lái xe.

Khi cô hầu ra mở cửa, bà nhớ lại suy nghĩ giá mà giờ đây bà có thể trở lại một nơi nào khác, trong những cánh rừng, thậm chí trên con tàu, thậm chí trong chiếc ô tô trên đường tới đây. Nhưng giờ bà đã đến nơi. Trong lúc bước vào hành lang, bà chỉ đơn giản là gọi Margaret. Cô hầu nói Margaret đang ở trong phòng đọc với bà chủ và theo chân bà khi bà bước vào căn phòng nằm bên tay phải, một căn phòng hiếm khi được dùng. Bà bảo cô hầu đến gọi Margaret, chỉ mình Margaret. Bà đứng đó với cánh cửa mở. Khi cô con dâu bà xuất hiện, Margaret nhìn bà và hỏi “Anh mất rồi ạ?” Bà đưa Margaret bức điện rồi quay về phía cửa sổ trong khi Margaret đọc nó. Bà đã đưa tin tới. Hoàn thành rồi. Kết thúc rồi. Hành trình tới Galway đã kết thúc. ♦

Copyright © 2015 by Colm Tóibín | Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Trong truyện ngắn này là các nhân vật và sự kiện chính đều có thật. Nhân vật “bà” là Augusta, Lady Gregory (1852–1932), người đồng sáng lập Abbey Theatre (Kịch viện Quốc gia Ireland). Trong cuộc đời mình bà đã viết và dịch khoảng 40 vở kịch, và có đóng góp quan trọng cho phong trào phục hưng văn học Ireland cuối thế kỷ 19. Con trai bà, Robert Gregory, qua đời ở Ý năm 1918 ở tuổi 36 trong Thế chiến I do bị một phi công người Ý bắn nhầm. Cái chết của Robert Gregory được cho là có tác động lâu dài tới W. B. Yeats, đồng sáng lập Abbey Theatre, người Ireland đầu tiên được trao giải Nobel Văn học năm 1923. Truyện ngắn cũng nhắc đến Hugh Lane, cháu trai gọi Lady Gregory bằng dì, người sáng lập ra Hugh Lane Gallery, phòng triển lãm nghệ thuật hiện đại được biết đến đầu tiên trên thế giới. Ông qua đời cùng 1.197 người khác trên con tàu RMS Lusitania khi nó bị hải quân Đức đánh chìm năm 1915.

[1] “Now lettest Thou thy servant depart in peace.” Phúc Âm Luca 2:29.

Advertisement

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

Information

This entry was posted on December 20, 2015 by in Truyện and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

%d bloggers like this: