Nguyễn Huy Hoàng

the star is fading

Truyện ngắn: “What Is Remembered” – Alice Munro

Alice Munro.jpg

Alice Munro (1931–) là nhà văn viết truyện ngắn người Canada. Bà được trao giải Man Booker Quốc tế năm 2009 và giải Nobel Văn học năm 2013. Truyện ngắn “What Is Remembered” được đăng lần đầu trên tạp chí The New Yorker (February , 2001) 196–207, và in, với một số khác biệt nhỏ, trong tập Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage (McClelland & Stewart, 2001). Hai truyện ngắn khác trong cùng tuyển tập, “The Bear Came over the Mountain” (“Con gấu trèo qua ngọn núi,” bản dịch của Nguyễn Đức Tâm An; và “Gấu vượt núi,” bản dịch của Nguyễn Vân Hà), và “Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage,” đã lần lượt được chuyển thể thành phim, Away from Her (2006) và Hateship, Loveship (2014). Tập truyện ngắn này được Nhã Nam & NXB Hội Nhà văn phát hành tháng 3/2016 dưới nhan đề Ghét, thân, thương, yêu, cưới, Trần Hạnh, Đặng Xuân Thảo, và Hạnh Mai dịch.

Những điều còn nhớ

Ở một phòng khách sạn tại Vancouver, Meriel hồi còn trẻ đang xỏ đôi găng tay mùa hè cổ ngắn màu trắng. Cô mặc váy lanh màu be và choàng chiếc khăn trắng mỏng tang trên tóc. Tóc sẫm, hồi đó. Cô mỉm cười vì nhớ đến lời nữ hoàng Thái Lan Sikirit từng nói, hoặc được dẫn lời, trên một tờ tạp chí. Một câu nói trong một câu nói – một câu nữ hoàng Sikirit nói Balmain từng nói.

“Balmain dạy tôi mọi thứ. Ông bảo, ‘Luôn đeo găng trắng. Găng trắng là tốt nhất.’”

Găng trắng là tốt nhất. Meriel mỉm cười với câu nói đó, không phải như ta cười với một câu chuyện đùa mà như với một điều ngớ ngẩn đáng yêu. Đôi tay đeo găng của cô trông trang nhã nhưng vô dụng. Bàn chân của mèo con.

Pierre hỏi sao cô cười, và cô đáp, “Không có gì,” rồi kể cho anh.

Anh hỏi, “Balmain là ai?”

***

Họ sửa soạn đi dự một đám tang. Họ đến đây qua phà từ đêm qua, từ nhà trên đảo Vancouver, để đảm bảo đến đúng giờ lễ tang buổi sáng. Đây là lần đầu tiên họ nghỉ ở khách sạn kể từ đêm tân hôn. Giờ khi đi nghỉ lễ họ luôn có hai đứa trẻ đi cùng, và họ tìm những nhà nghỉ rẻ tiền phục vụ cho các gia đình.

Đây là đám tang thứ hai họ đến dự với tư cách một cặp vợ chồng. Cha Pierre đã qua đời, và mẹ Meriel cũng đã qua đời, nhưng đó là trước khi Pierre và Meriel gặp nhau. Năm ngoái, một giáo viên ở trường của Pierre đột tử, và đã có một đám tang tử tế, với dàn đồng ca nam sinh và một bài điếu văn với lời từ thế kỷ 16. Ông đã đến giữa tuổi lục tuần, và cái chết của ông với Meriel và Pierre chỉ như một bất ngờ nhỏ và gần như không có gì buồn. Qua đời ở tuổi sáu lăm hay bảy lăm hay tám lăm, theo họ, cũng không khác nhau nhiều lắm.

Đám tang hôm nay lại khác. Người sắp được chôn là Jonas. Bạn thân nhất của Pierre trong nhiều năm và cùng tuổi Pierre – hai mươi chín. Pierre và Jonas cùng lớn lên ở West Vancouver – họ vẫn còn nhớ nó trước khi cầu Sư Môn được xây, hồi còn trông như một thị trấn nhỏ. Cha mẹ họ là bạn bè. Năm mười một mười hai tuổi họ đóng một con thuyền mái chèo và hạ thủy ở bến Dundarave. Lên đại học họ tách nhóm một thời gian – Jonas học kỹ sư, trong khi Pierre ghi danh ngành cổ điển học, và sinh viên nghệ thuật và sinh viên cơ khí có truyền thống coi thường nhau. Nhưng trong những năm sau đó tình bạn đã hồi sinh phần nào. Jonas, chưa lập gia đình, vẫn đến thăm Pierre và Meriel, đôi lúc ở lại với họ cả tuần mỗi lần.

Những gì xảy ra trong cuộc đời hai người đã làm họ bất ngờ, và họ thường đùa cợt về nó. Lựa chọn nghề nghiệp của Jonas có vẻ khiến cha mẹ gã rất an tâm, và làm dấy lên cảm giác thầm ghen tị trong cha mẹ Pierre, nhưng Pierre mới là người đã lập gia đình và tìm được một công việc giảng dạy và chấp nhận những trách nhiệm thông thường, trong khi Jonas, sau khi xong đại học, chưa bao giờ ổn định với một cô gái hay nghề nghiệp nào. Gã luôn thuộc dạng tập sự mà cuối cùng đều không gắn bó với công ty nào, và các cô gái – ít nhất theo lời gã nói – cũng luôn thuộc dạng tập sự với gã. Công việc kỹ thuật cuối cùng của gã là ở miền bắc tỉnh bang, và gã ở lại đó sau khi hoặc bỏ việc hoặc bị đuổi. “Công việc chấm dứt theo thỏa thuận chung,” gã viết cho Pierre, nói thêm gã đang sống ở khách sạn, nơi toàn bộ giới thượng lưu sinh sống, và có thể sẽ kiếm việc với đám thợ xẻ. Gã cũng đang học lái máy bay, và nghĩ đến việc trở thành phi công vùng cao. Gã hứa sẽ đến thăm khi những rắc rối tài chính hiện tại thu xếp xong.

Meriel đã hy vọng chuyện đó đừng xảy ra. Jonas ngủ trên đi văng phòng khách và sáng ra gã vứt hết chăn nệm trên sàn cho cô thu dọn. Gã giữ Pierre đến tận nửa đêm, nói chuyện về những chuyện xảy ra từ hồi thiếu niên hay thậm chí trẻ hơn. Cái tên gã dùng để gọi Pierre là “Xì ke,” biệt danh từ những năm ấy, và gã gọi những người bạn cũ khác là Stinkpool và Doc và Buste, chưa bao giờ bằng những cái tên Meriel vẫn nghe – Stan và Don và Rick. Gã nhắc lại một cách tiểu tiết đến thô lỗ về chi tiết của những vụ mà Meriel nghĩ là không đáng nhớ hay buồn cười đến thế (túi phân chó đốt trước cửa nhà giáo viên, cuộc hỏi quấy cái lão già vẫn cho mấy thằng nhóc một đồng xu để tụt quần chúng xuống), và phát cáu nếu câu chuyện xoay sang hiện tại.

Khi phải bảo Pierre là Jonas đã chết cô thấy có lỗi và sốc. Có lỗi vì cô không ưa gã và sốc vì gã là người đầu tiên họ biết rõ, ở cùng lứa tuổi với họ, qua đời. Nhưng trông Pierre không có vẻ bất ngờ hay đặc biệt choáng váng.

“Tự sát,” anh nói.

Cô bảo không, tai nạn. Gã đang lái mô tô, khi trời đã tối, trên đường rải sỏi, và ngã xuống đường. Ai đó thấy gã, hoặc đi cùng gã, cứu giúp nhanh chóng, nhưng gã chết trong một giờ. Các vết thương ấy làm chết người.

Đó là lời mẹ gã nói, qua điện thoại. Các vết thương ấy làm chết người. Bà nghe có vẻ cam chịu rất nhanh, rất không bất ngờ. Như Pierre khi anh nói “Tự sát.”

Sau đó Pierre và Meriel gần như không nói về cái chết, chỉ về tang lễ, phòng khách sạn, việc cần có người trông trẻ qua đêm. Bộ vét của anh được giặt, áo sơ mi trắng thì mua. Meriel là người sắp xếp các thứ, và Pierre cứ liên tục kiểm tra cô với vẻ khó chịu của các ông chồng. Cô hiểu anh mong cô giữ kiểm soát và bình tĩnh, như anh, và không bày tỏ bất cứ nỗi buồn nào mà – anh chắc chắn – cô không thực sự cảm thấy. Cô hỏi sao anh nói “Tự sát,” và anh trả lời, “Chỉ là tự nhiên thì nghĩ thế thôi.” Cô có cảm giác sự lảng tránh của anh là một dạng cảnh báo nào đấy hay thậm chí một lời quở trách. Cứ như thể anh ngờ rằng cô sẽ rút ra từ cái chết này – hay từ sự gần gũi của họ với cái chết này – một cảm giác không chấp nhận được và vị kỷ. Một sự phấn khích bệnh hoạn, tự mãn.

Ngày ấy các ông chồng trẻ đều nghiêm khắc. Chỉ một thời gian ngắn trước, họ còn là người đeo đuổi, hầu hết đáng cười, khụy lụy và tuyệt vọng trong cơn đau tình. Giờ, đã ăn nằm với nhau, họ thành ra cứng rắn và hay chê bai. Đi làm mỗi sáng, râu ria sạch sẽ, những cái cổ trẻ trung trong cà vạt thắt nút, ngày ngày dành cho những việc không tên, trở về nhà vào giờ ăn tối để ném cái nhìn chỉ trích vào đống đồ ăn và giũ tờ báo ra, giơ nó lên giữa họ và mớ lộn xộn nhà bếp, bệnh tật và cảm xúc, trẻ con. Biết bao điều họ phải học, thật nhanh. Khấu đầu trước các ông chủ thế nào và quản lý các bà vợ ra sao. Làm sao để làm chủ các tài sản thế chấp, tường chắn, bãi cỏ, cống rãnh, chính trị, cũng như những nghề nghiệp giúp họ duy trì gia đình trong một phần tư thế kỷ tới. Khi đó phụ nữ là người có thể âm thầm trở về – trong những giờ ban ngày, và luôn tính đến cái trách nhiệm choáng váng được đặt lên họ, trách nhiệm về lũ trẻ – một kiểu thời con gái thứ hai. Một cơn lên tinh thần khi các ông chồng ra khỏi nhà. Phen nổi dậy trong mơ, cuộc tụ họp lật đổ, những tràng cười như thời trung học, buổi hái nấm giữa các bức tường mà ông chồng trả tiền để xây, trong những giờ anh ta không ở đó.

***

Sau lễ tang một số người được mời về nhà cha mẹ Jonas ở Dundarave. Giậu đỗ quyên đang ra hoa, toàn bộ đỏ và hồng và tím. Cha Jonas được khen về mảnh vườn.

“Ồ, tôi không rõ,” ông nói. “Chúng tôi phải tạo hình cho nó trong lúc hơi vội.”

Mẹ Jonas nói, “Đây không phải bữa trưa đúng kiểu, tôi e vậy. Chỉ là bữa đột xuất.” Đa số uống sherry, tuy có mấy người đàn ông dùng whiskey. Đồ ăn bày trên chiếc bàn ăn được nối thêm – mousse cá hồi và bích quy, bánh tart nấm, chả xúc xích, một cái bánh chanh nhẹ và trái cây cắt sẵn và bánh quy hạnh nhân ép, cũng như tôm và giăm bông và sandwich kẹp dưa chuột và bơ. Pierre chất mọi thứ lên cái đĩa sứ nhỏ và Meriel nghe thấy mẹ anh bảo anh, “Con biết không, lúc nào quay lại làm suất nữa cũng được đấy.”

Mẹ anh không còn sống ở West Vancouver nữa mà từ White Rock đến dự lễ tang. Và bà không tự tin lắm với một lời quở trách trực tiếp, khi giờ Pierre đã là giáo viên và đã lập gia đình.

“Hay con nghĩ sẽ không còn gì trên bàn?”

Pierre nói vẻ bất cần, “Chắc là không còn mấy cái con thích.”

Mẹ anh nói với Meriel.

“Váy đẹp quá.”

“Dạ, nhưng chỗ này,” Meriel nói, vuốt phẳng những vết nhăn đã thành nếp trong lúc cô ngồi suốt buổi lễ.

“Phiền thế đấy,” mẹ Pierre nói.

“Phiền gì thế?” mẹ Jonas hỏi nhẹ nhàng, gạt mấy chiếc bánh tart lên cái đĩa hâm nóng đồ ăn.

“Vải lanh phiền thế đấy,” mẹ Pierre đáp, “Meriel vừa bảo váy con bé bị nhăn” – con bé không bảo, “trong lễ tang” – “tôi bảo vải lanh phiền thế đấy.”

Có lẽ mẹ Jonas không nghe. Nhìn qua căn phòng, bà nói, “Kia là cậu bác sĩ đã chăm sóc thằng bé. Cậu ấy xuống đây từ Smithers bằng máy bay riêng. Chúng tôi thấy cậu ấy thật tốt.”

Mẹ Pierre nói, “Thật là công việc vất vả quá.”

“Vâng. Ôi. Tôi nghĩ cậu ấy đi lại kiểu ấy để giúp đỡ dân sống vùng rừng.”

Người đàn ông họ nhắc tới đang nói chuyện với Pierre. Anh không mặc vét, nhưng có áo khoác chỉnh tề, sơ mi và cà vạt.

“Tôi cũng nghĩ thế,” mẹ Pierre đáp, rồi mẹ Jonas nói, “Vâng,” và Meriel có cảm giác như thể có điều gì đó đã được dàn xếp giữa hai người.

Cô nhìn xuống đám khăn ăn, chúng được gấp làm tư. Chúng không to như khăn ăn tối hay nhỏ như khăn cocktail. Chúng được xếp thành hàng chồng lên nhau, sao cho góc (được thêu một bông hoa be bé màu vàng hoặc xanh hoặc hồng) mỗi chiếc khăn chồng lên góc gập của chiếc kế bên. Không có hai chiếc thêu hoa cùng màu nào đặt cạnh nhau. Không ai động đến chúng, hoặc nếu có – vì cô có thấy mấy người quanh phòng đang cầm khăn ăn – thì họ đã lấy khăn ăn từ cuối dãy một cách cẩn thận, và trật tự vẫn được duy trì.

Trong lễ tang, ông mục sư so sánh cuộc sống của Jonas trên trái đất với cuộc sống của đứa bé trong bụng mẹ. Đứa bé, ông nói, không hề biết đến sự tồn tại nào khác và cư ngụ trong cái hang đầy nước, tối đen, ấm áp của nó mà không có một ý tưởng mơ hồ nào về cái thế giới vĩ đại, tươi sáng mà nó sẽ sớm được đưa vào. Và chúng ta trên trái đất có một ý tưởng mơ hồ, nhưng quả thực không thể tưởng tượng được thứ ánh sáng mà chúng ta sẽ bước vào, sau khi chúng ta sống sót qua cơn đau của cái chết. Nếu đứa bé bằng cách nào đó có thể được báo trước về những điều sẽ xảy ra với nó trong tương lai gần, liệu nó có không hoài nghi cũng như sợ hãi không? Chúng ta cũng thế, phần lớn xưa nay, nhưng chúng ta không nên như thế, vì chúng ta đã được ban cho lòng tin. Dẫu vậy, những bộ óc mù lòa của chúng ta cũng không thể tưởng tượng được, không thể thấu hiểu được, thứ mà chúng ta sẽ đi vào. Đứa bé được bao bọc trong sự vô minh của nó, trong đức tin của cái hữu thể câm lặng, bất lực của nó. Và chúng ta, những người không hoàn toàn vô minh cũng và cũng không hoàn toàn hiểu biết, phải lưu ý bao bọc mình trong đức tin của chúng ta, trong ngôi lời của Chúa.

Meriel nhìn ông mục sư đang đứng ở cửa hành lang với ly sherry trên tay, lắng nghe một người phụ nữ lanh lợi có mái tóc vàng hoe uốn phồng. Trông họ không có vẻ như đang nói chuyện về những nỗi đau của cái chết và ánh sáng phía trước. Ông sẽ làm gì nếu cô bước tới bắt bẻ ông về chủ đề đó?

Chẳng ai có lòng mà làm như vậy. Hoặc không vô lễ.

Thay vào đó, cô nhìn Pierre và anh bác sĩ vùng cao. Pierre nói chuyện sôi nổi kiểu con trai mà cô không thường thấy ở anh trong những ngày này. Cô giết thời gian bằng cách giả vờ như đang nhìn anh lần đầu. Mái tóc rất sẫm, ngắn, quăn của anh thưa dần về phía thái dương, lộ ra làn da mịn màu ngà nhuốm vàng. Bờ vai nhọn, rộng và tay chân dài, khẳng khiu và hộp sọ có dáng cân đối, khá nhỏ. Anh cười quyến rũ nhưng không bao giờ để quyến rũ, và nhìn chung có vẻ không còn tin vào những nụ cười kể từ khi anh trở thành thầy giáo nam sinh. Những nếp mờ của sự băn khoăn thường trực lúc nào cũng ở trên trán.

Cô nghĩ về bữa tiệc giáo viên – hơn một năm trước – khi cô và anh thấy nhau, ở hai phía đối diện của căn phòng, lạc lõng bên những cuộc trò chuyện gần đó. Cô đi vòng quanh căn phòng và lại gần anh mà anh không để ý, rồi cô bắt đầu trò chuyện với anh như thể cô là người lạ thích tán tỉnh kín đáo. Anh cười như anh đang cười bây giờ – nhưng với một nét khác biệt, như điều tự nhiên khi nói chuyện với một cô gái đi săn mồi – và anh nhập vai. Họ trao nhau những cái nhìn say đắm và những lời vô vị cho đến khi cả hai cùng phá ra cười. Ai đó đến chỗ họ và bảo những câu đùa kiểu vợ chồng là không được phép.

“Sao anh lại nghĩ chúng tôi thực sự đã cưới thế?” Pierre nói, cách cư xử của anh thường rất thận trọng trong những bữa tiệc như vậy.

Giờ thì cô băng qua căn phòng về phía anh mà không còn sự dại khờ như vậy trong tâm trí. Cô phải nhắc anh rằng họ sẽ sớm phải đi mỗi người một ngả. Anh sẽ lái đến vịnh Horseshoe để bắt chuyến phà tới, và cô sẽ phải đi qua Bờ Bắc tới Lynn Valley bằng xe buýt. Cô đã thu xếp để nhân dịp này tới thăm một người mà bà mẹ quá cố của cô từng yêu quý và mến mộ, và thực ra đã đặt tên cô theo tên bà, người mà Meriel vẫn gọi là Bác, dẫu hai người không có quan hệ máu mủ. Bác Muriel. (Khi đi học đại học Meriel đã đổi cách viết tên.) Bà cụ đang sống trong một viện dưỡng lão ở Lynn Valley, và đã hơn một năm Meriel chưa đến thăm bà. Mất rất nhiều thời gian mới đến được đó, trên những chuyến đi gia đình không thường xuyên của họ tới Vancouver, và lũ trẻ thì khó chịu với bầu không khí của viện dưỡng lão và với dáng vẻ của những người sống ở đó. Pierre cũng thế, dẫu anh không muốn nói ra. Thay vào đó, anh hỏi người này có họ hàng gì với Meriel cơ chứ.

Bà ấy đâu phải bác ruột.

Thế nên giờ Meriel sẽ đi thăm bà một mình. Cô đã nói cô sẽ thấy có lỗi nếu không đi khi có cơ hội. Còn nữa, dẫu không nói ra, cô đã mong chờ chuyến thăm bà sẽ cho cô thời gian được thoải mái một mình.

“Hay anh đưa em đi,” Pierre nói. “Có Chúa mới biết em phải đợi bao lâu mới có buýt.”

“Anh đi không được đâu,” cô đáp. “Anh sẽ lỡ phà mất.” Cô nhắc anh về thỏa thuận của họ với người trông trẻ. Anh nói, “Em nói đúng.”

Người đàn ông mà Pierre đang trò chuyện cùng – anh bác sĩ – không còn lựa chọn nào ngoài lắng nghe cuộc trò chuyện này và bất ngờ nói, “Để tôi đưa cô đi.”

“Tôi tưởng anh đến đây bằng máy bay,” Meriel nói, cùng lúc Pierre nói, “Đây là vợ tôi, xin lỗi. Meriel.”

Anh bác sĩ nói với cô một cái tên mà cô nghe không ra.

“Hạ cánh xuống núi Hollyburn không dễ lắm đâu,” anh nói. “Nên tôi để nó lại sân bay và thuê ô tô.”

Chút nhã nhặn gượng gạo nào đó, từ phía anh, đã khiến Meriel nghĩ cô nghe có vẻ khó chịu. Cô thường hoặc quá bạo dạn hoặc quá nhút nhát.

“Như thế thực sự được chứ?” Pierre nói. “Anh có thời gian không?”

Anh bác sĩ nhìn thẳng vào Meriel. Đó không phải là cái nhìn thô lỗ – nó không táo bạo hay ẩn ý, nó không dò xét. Nhưng nó cũng không lịch thiệp xã giao.

Anh nói, “Dĩ nhiên.”

Vậy là đồng ý mọi chuyện sẽ như thế. Giờ họ sẽ bắt đầu nói lời tạm biệt và Pierre sẽ tới đón phà còn Asher, tên của anh – hay Bác sĩ Asher – sẽ đưa Meriel tới Lynn Valley.

Meriel định sau đó sẽ đến thăm Bác Muriel – thậm chí có thể ngồi với bà qua bữa tối – rồi bắt xe buýt từ Lynn Valley về bến ở trung tâm thành phố (buýt về thành phố tương đối thường xuyên) và lên chuyến tối muộn, nó sẽ đưa cô đến bến phà, và về nhà.

***

Viện dưỡng lão này được gọi là Công chúa Thái ấp. Nó là tòa nhà một tầng với hai bên cánh được mở rộng, trát vữa màu nâu ngả hồng. Đường phố nhộn nhịp, và không có mảnh vườn nào đáng nói, không có hàng giậu hay hàng rào nào để ngăn tiếng ồn hay bảo vệ các thảm cỏ. Ở một bên có nhà thờ Tin Lành với ngọn tháp chuông trông ngồ ngộ, bên còn lại là trạm xăng.

“Cái chữ ‘thái ấp’ chẳng còn mang ý nghĩa gì nữa nhỉ?” Meriel nói. “Thậm chí còn chẳng có nghĩa là có tầng trên. Nó chỉ có nghĩa người ta nên nghĩ  đó là nơi mà nó thậm chí còn chẳng tỏ ra là nó.”

Anh bác sĩ không nói gì – có lẽ điều cô vừa nói không có ý nghĩa gì với anh. Hoặc là không đáng nói ngay cả khi nó có ý nghĩa. Cả chặng đường từ Dundarave, cô nghe mình tự nói chuyện và lo lắng. Không hẳn là cô đang huyên thiên – nói bất cứ thứ gì xuất hiện trong đầu – mà đúng hơn, cô đang cố diễn đạt những thứ với cô nghe có vẻ thú vị, hoặc đáng lẽ đã thú vị nếu cô có thể nói ra ý ra tứ. Nhưng có lẽ chúng nghe có vẻ khoe mẽ, nếu không nói ngớ ngẩn, lảm nhảm theo cái cách mà cô đang làm. Trông cô chắc hẳn như một trong những người phụ nữ quyết tâm không tạo ra một cuộc trò chuyện bình thường mà là một cuộc trò chuyện thực sự. Và ngay cả khi cô biết mình không làm được gì, rằng với anh bài nói của cô chắc hẳn phải như một sự áp đặt, cô vẫn không thể dừng lại.

Cô không biết điều gì đã gây ra chuyện này. Sự khó chịu, đơn giản vì giờ đây cô hiếm khi nói chuyện với người lạ? Sự kỳ quặc của việc ngồi một mình trong xe với một người đàn ông không phải chồng mình?

Cô thậm chí còn hỏi, một cách thiếu suy nghĩ, anh nghĩ gì về ý kiến của Pierre rằng vụ tai nạn mô tô là tự sát.

“Cô có thể nói như thế với nhiều vụ tai nạn thảm khốc,” anh nói.

“Không cần rẽ vào lối vào đâu,” cô nói. “Tôi xuống đây được rồi.” Quá ngượng ngùng, quá mong muốn tránh xa anh và sự thờ ơ gần như bất lịch sự của anh đến nỗi cô đặt tay lên nắm cửa, như thể chực mở nó ra, trong lúc họ còn đang đi dọc trên con phố.

“Tôi đang định đỗ lại,” anh nói, vẫn rẽ vào. “Tôi sẽ không để cô bị bỏ rơi.”

Cô nói, “Chắc tôi sẽ lâu đấy.”

“Không sao cả. Tôi chờ được. Hay là tôi vào thăm thú xung quanh cũng được. Nếu cô không phiền.”

Cô định nói viện dưỡng lão có thể ảm đạm và đáng sợ. Rồi cô nhớ ra anh là bác sĩ và sẽ không thấy điều gì ở đây mà anh chưa từng thấy trước đây. Và có điều gì đó trong cách anh nói “nếu cô không phiền” – có lịch sự, nhưng cũng có ngập ngừng trong giọng nói của anh – khiến cô ngạc nhiên. Có vẻ như anh đang đưa ra một lời đề nghị dành thời gian và sự hiện diện của anh mà không mấy liên quan đến sự nhã nhặn, mà đúng hơn là có liên quan đến bản thân cô. Đó là lời đề nghị đưa ra với chút khiêm nhường thẳng thắn, nhưng không phải một lời cầu xin. Nếu cô nói thực sự cô không muốn làm mất thời gian của anh thêm nữa, có lẽ anh sẽ không cố thuyết phục thêm; anh vẫn lịch sự như thế nói lời tạm biệt và ra về.

Thế là họ xuống xe và bước bên nhau qua bãi đậu, hướng về cổng chính.

Mấy người già cả hoặc tàn tật đang ngồi trên một ô vỉa hè có vài bụi cây trông như lông thú và mấy chậu dã yên thảo xung quanh, gợi ra một mảnh sân vườn. Bác Muriel không ngồi cùng mọi người, nhưng Meriel vẫn thấy mình chào hỏi họ. Mỗi bước cô đi, cô có cảm giác như thể có một sợi dây dẫn được thắp lên, một thông điệp sáng rực đi từ gót chân lên tới đỉnh đầu.

(Sau này khi cô hỏi anh “Sao anh lại vào đây với tôi?” anh nói, “Vì tôi không muốn mất dấu cô.”)

Bác Muriel đang ngồi một mình, trên xe lăn, trong hành lang tối ngay bên ngoài cửa phòng ngủ của bà. Bà béo và trông lung linh – nhưng đó là do được quấn trong cái tạp dề amiăng để bà có thể hút thuốc. Meriel tin rằng khi bà nói lời tạm biệt với cô, nhiều tháng và nhiều mùa trước, bà vẫn ngồi trên cùng một chiếc ghế ở cùng một chỗ – dẫu không có tạp dề amiăng, thứ chắc hẳn phải phù hợp với quy định mới nào đó, hay phản ánh sự sa sút trầm trọng hơn nào đó. Rất có thể, bà ngồi ở đây mỗi ngày cạnh cái gạt tàn cố định chứa cát, nhìn lên bức tường màu gan ố (họ đã sơn nó màu hồng hay màu hoa cà, nhưng nó trông màu gan ố, trong hành lang rất tối) có treo kệ đỡ một giàn thường xuân giả.

“Meriel? Là cháu đấy à,” Muriel nói. “Ta nghe bước chân cháu là biết. Ta nghe hơi thở cháu là biết. Bệnh đục thủy tinh thể của ta nặng lắm rồi. Ta chỉ thấy toàn đốm.”

“Cháu đây mà, đây rồi. Bác sao rồi?” Meriel hôn lên thái dương bà. “Sao bác không ra ngoài nắng?”

“Ta không thích nắng,” bà cụ đáp. “Ta còn phải nghĩ cho da dẻ.”

Có thể bà đùa, nhưng có lẽ đúng thật. Trên khuôn mặt và đôi bàn tay nhợt nhạt của bà có nhiều đốm lớn – những đốm trắng bệch bắt thứ ánh sáng ở đó, chuyển sang ánh bạc. Bà từng là một cô gái tóc vàng, da dẻ hồng hào, mảnh khảnh, với mái tóc thẳng, cắt tỉa cẩn thận, bạc đi hồi ngoài ba mươi. Giờ mái tóc đã xơ, rối bù vì cọ vào gối, và dái tai bà thò ra ngoài mái tóc như những núm vú dẹt. Và bà từng đeo hoa tai kim cương nhỏ – chúng đâu cả rồi? Hoa tai kim cương, dây chuyền vàng thật, ngọc trai xịn, áo lụa màu lạ – hổ phách, cà tím – và những đôi giày lòng thon xinh xắn.

Bà có mùi bột giặt bệnh viện và kẹo cam thảo bà mút cả ngày giữa những điếu thuốc giới hạn liều.

“Ta cần mấy cái ghế,” bà nói. Bà cúi người ra trước, vẫy bàn tay cầm điếu thuốc trong không khí, cố gắng rít lên. “Phục vụ, làm ơn. Ghế.”

Anh bác sĩ nói, “Cháu sẽ đi tìm.”

Chỉ còn lại người phụ nữ già và cô gái trẻ.

“Chồng cháu tên gì nhỉ?”

“Pierre.”

“Cháu có hai đứa, đúng không? Jane và David?”

“Dạ. Nhưng cái anh đi cùng cháu—”

“À, không. Đấy đâu phải chồng cháu.”

Bác Muriel thuộc thế hệ của bà ngoại Meriel hơn là thế hệ mẹ cô. Bà là giáo viên nghệ thuật của mẹ Meriel ở trường, thứ nhất là nguồn cảm hứng, tiếp theo là một đồng minh, hơn nữa là một người bạn. Bà vẽ nhiều bức tranh trừu tượng lớn, một trong số đó – món quà dành cho mẹ Meriel – được treo trên hành lang sau của căn nhà nơi Meriel lớn lên và được chuyển vào phòng ăn mỗi dịp người nghệ sĩ đến chơi. Nó có màu u ám – đỏ và nâu đậm (cha Meriel gọi nó là “Đống phân cháy”) – nhưng tinh thần của Bác Muriel thì dường như luôn tươi sáng và bất khuất. Bà sống ở Vancouver khi còn nhỏ, trước khi chuyển đến dạy ở thành phố nội địa này. Bà là bạn của nhiều nghệ sĩ giờ có tên trên báo. Bà ao ước trở về đó và cuối cùng đã về, để sống cùng và quản lý công việc cho một đôi vợ chồng già giàu có là bạn và người bảo trợ của các nghệ sĩ. Bà bị ghẻ lạnh khi họ qua đời. Bà sống bằng tiền lương hưu, bắt đầu dùng màu nước vì không đủ tiền mua dầu vẽ, nhịn đói (mẹ Meriel ngờ vậy) để đưa Meriel đi ăn trưa – Meriel hồi đó đang là sinh viên. Trong những dịp này bà liến thoắng các câu chuyện đùa và đánh giá, phần lớn là chỉ ra những tác phẩm và ý tưởng được mọi người ca ngợi rác rưởi như thế nào, nhưng ở chỗ này chỗ kia – trong sản phẩm của một số nhân vật vô danh đương đại hay đã bị lãng quên mất nửa từ thế kỷ trước – lại có thứ gì đó phi thường ra sao. Đó là từ khen ngợi hết lời của bà – phi thường. Một sự lặng im trong giọng nói của bà, như thể đột nhiên và trước sự ngạc nhiên của chính mình bà tình cờ tìm được một thứ gì đó trên thế giới này vẫn đáng được tôn trọng tuyệt đối.

Anh bác sĩ trở lại với hai chiếc ghế và tự giới thiệu, khá tự nhiên, như thể cho đến giờ mới có cơ hội.

“Eric Asher.”

“Anh ấy là bác sĩ,” Meriel nói. Cô định bắt đầu giải thích về tang lễ, vụ tai nạn, chuyến bay từ Smithers, nhưng bị đỡ lời.

“Nhưng cháu không ở đây vì công việc chính, bác đừng lo,” anh bác sĩ nói.

“Ồ, đâu có,” Bác Muriel nói. “Cháu ở đây với con bé.”

“Dạ,” anh đáp.

Lúc này anh với tay qua khoảng trống giữa hai chiếc ghế và cầm tay Muriel lên, siết chặt một lúc, rồi buông ra. Anh hỏi Bác Muriel, “Sao bác biết? Từ hơi thở của cháu?”

“Ta biết chứ,” bà nói với chút mất kiên nhẫn. “Ta cũng từng lợi hại lắm đấy.”

Giọng bà – tiếng run hay khúc khích trong đó – khiến Meriel cảm thấy có sự phản bội nào đó đang dấy lên: sự phản bội với quá khứ, có lẽ của bà, của Meriel, mẹ, và dạng tình bạn mà cô đã có, hay cô nghĩ mình đã có, với người phụ nữ này. Hoặc là với những bữa trưa cùng Meriel, những cuộc chuyện trò trí thức. Sự hạ cấp nào đó, thứ khẽ kích thích cô.

“Ồ, ta từng có bạn bè chứ,” Bác Muriel nói. “Mấy người có một nơi mà bọn ta đều đến, trên đảo Bowen. Nhà Delaney. Cháu không nhớ nhà Delaney nhỉ?” Bà nói với chàng trai, không phải với Meriel.

“Cháu nghĩ là không,” anh đáp. “Không.”

“Ta nghĩ có thể cháu nghe về bọn họ rồi. Ừ thì có rất nhiều hoạt động. Những thứ diễn ra ở đấy có thể trông như một cuộc phiêu lưu nhưng tất cả đều theo kịch bản, cháu hiểu ý ta đấy. Nên thật ra không hẳn là phiêu lưu. Bọn ta đều say như con quay, dĩ nhiên. Nhưng bọn họ luôn có nến thắp thành vòng tròn và nhạc nhẽo, dĩ nhiên – giống một nghi lễ hơn. Nhưng không hoàn toàn. Không có nghĩa là cháu không thể gặp được ai đó mới và kệ xác cái kịch bản. Gặp nhau lần đầu và bắt đầu hôn như điên và bỏ chạy vào rừng. Trong bóng tối. Cũng chẳng đi được xa đâu. Đừng bận tâm. Chấm hết.”

Bà bắt đầu ho, cố nói trong cơn ho, từ bỏ, và hóc dữ dội. Anh bác sĩ đứng dậy và vỗ một cách thành thạo vài lần lên tấm lưng còng của bà. Cơn ho kết thúc bằng một tiếng rên.

“Đỡ rồi,” bà nói, tiếp tục câu chuyện. “Ồ, cháu biết mình đang làm gì, nhưng cứ giả vờ là không. Có một lần, bọn họ bịt mắt ta. Không phải trong rừng, ở trong nhà. Không sao cả, ta đồng ý. Dẫu nó diễn ra không tốt lắm – ý ta là ta có biết. Mà có lẽ không có ai ở đó mà ta không nhận ra được.”

Bà lại ho, tuy không quá dữ dội như lúc trước. Rồi bà ngẩng đầu, hít sâu và khò khè trong ít phút, giơ tay ra chặn cuộc trò chuyện, như thể bà sắp sửa có điều gì đó nữa, một điều quan trọng, cần nói. Nhưng cuối cùng tất cả những gì bà làm là cười và nói, “Giờ thì ta đã có một cái bịt mắt vĩnh viễn rồi. Đục thủy tinh thể. Chẳng khiến ta được lợi dụng, trong bất cứ cuộc hoan lạc nào ta biết.”

“Bệnh của bác bao lâu rồi?” anh bác sĩ nói với vẻ quan tâm lễ phép, và với sự nhẹ nhõm khôn xiết của Meriel bắt đầu một cuộc chuyện trò say sưa, một cuộc thảo luận đầy thông tin về quá trình chín của thủy tinh thể, việc cắt bỏ chúng, ưu nhược điểm của ca phẫu thuật này, và sự hoài nghi của Bác Muriel về bác sĩ nhãn khoa bị đẩy vào – theo lời bà – chăm sóc những người ở đây. Cuộc tưởng tượng dâm ô – giờ Meriel nhận định về câu chuyện của bà như thế – rơi không một chút khó khăn vào cuộc trò chuyện y tế, sự bi quan tán đồng từ phía Bác Muriel và sự an ủi chu đáo từ phía anh bác sĩ. Kiểu trò chuyện chắc hẳn vẫn thường xuyên diễn ra sau những bức tường này.

Một thoáng nhìn trao nhau giữa Meriel và anh bác sĩ, hỏi xem liệu chuyến thăm này đã kéo dài quá lâu. Một thoáng nhìn vụng trộm, cẩn trọng, gần như một thoáng nhìn của vợ chồng, sự giả trang và thân mật dịu dàng gợi lên giữa hai người, xét cho cùng, không phải là vợ chồng.

Chẳng mấy chốc.

Bác Muriel lên tiếng trước. Bà nói, “Xin lỗi, ta thật bất lịch sự quá, ta phải bảo cháu – ta mệt rồi.” Không dấu hiệu nào trong thái độ bây giờ của bà về người mở đầu cuộc trò chuyện. Phân tâm, diễn kịch, và với một cảm giác xấu hổ mơ hồ, Meriel nói lời tạm biệt. Cô có cảm giác mình sẽ không bao giờ gặp lại Bác Muriel, và cô đã không bao giờ gặp lại.

Nhanh chóng, với cửa vẫn mở ở những căn phòng nơi mọi người nằm ngủ hoặc có lẽ đang nhìn hai người từ giường của họ, anh bác sĩ đặt tay lên lưng Meriel giữa hai bả vai và lần xuống dưới eo. Cô nhận ra anh đang gỡ lớp vải của chiếc váy ra khỏi lưng cô, vốn bị dính vào làn da ẩm của cô khi cô ngồi dựa vào lưng ghế. Váy cũng ướt phía bên dưới cánh tay.

Cô phải vào nhà vệ sinh. Cô tìm mãi nhà vệ sinh dành cho khách mà cô nghĩ mình đã thấy trên đường vào.

Đây rồi. Cô đã đúng. Nhẹ nhõm nhưng cũng khó xử, vì cô phải rời đột ngột khỏi tầm tay anh và nói “Một lát thôi,” bằng giọng với cô nghe xa cách và bực bội. Anh nói, “Ừ,” và nhanh nhẹn hướng về phòng vệ sinh nam, và cái tế nhị của khoảnh khắc này biến mất.

Khi cô bước ra ngoài dưới trời nắng nóng, cô thấy anh đang đi lại cạnh chiếc xe hơi, hút thuốc. Anh không hút thuốc trước đó – không ở nhà cha mẹ Jonas hay trên đường đến đây hay với Bác Muriel. Hành động này dường như làm cô lập anh, cho thấy sự thiếu kiên nhẫn nào đó, sự thiếu kiên nhẫn khi đã làm xong một việc và bắt đầu sang việc kế tiếp. Meriel không thật sự chắc cô là việc kế tiếp hay là việc đã xong.

“Đi đâu?” anh hỏi, lúc họ đang đi trên xe. Rồi, như thể anh nghĩ mình vừa nói quá cộc cằn, “Cô muốn đi đâu?” Gần như như thể anh đang nói với một đứa trẻ, hay với Bác Muriel – ai đó anh phải trông cả buổi chiều. Và Meriel đáp, “Tôi không biết,” như thể cô không còn lựa chọn nào ngoài việc để cho mình trở thành đứa trẻ sưng sỉa, nặng gánh đó. Cô đang kìm nén một tiếng than thất vọng, một tiếng reo ham muốn. Ham muốn dường như e thẹn và lác đác nhưng không thể tránh khỏi, nhưng giờ đột nhiên bị coi là không phù hợp, đơn phương. Đôi bàn tay anh trên vô lăng là của riêng anh, được thu hồi, như thể anh chưa từng chạm vào cô.

“Công viên Stanley thì sao? Cô có muốn đi dạo trong Stanley không?”

Cô đáp, “Ồ, công viên Stanley. Tôi chưa đến đó nhiều năm rồi,” như thể ý tưởng này đã nhấc bổng cô lên và cô không thể tưởng tượng được có gì tuyệt hơn. Và cô làm mọi thứ tồi tệ hơn bằng cách nói thêm, “Thật là một ngày đẹp trời.”

“Đẹp. Quả là đẹp.”

Họ nói như tranh biếm họa – không thể chịu đựng nổi.

“Họ không gắn radio trong xe thuê thế này. Có lúc có. Có lúc không.”

Cô vặn kính xuống trong lúc họ qua cầu Sư Môn. Cô hỏi anh có phiền không.

“Không. Không sao.”

“Mùa hè với tôi luôn là như thế. Kéo kính xuống gác khuỷu tay ra ngoài và gió lùa vào trong – tôi không nghĩ mình quen được điều hòa.”

“Nóng quá chắc cũng quen thôi.”

Cô chìm vào lặng yên, cho đến khi cánh rừng công viên đón họ, và những cái cây cao, dày có thể nuốt trôi được sự ngốc nghếch và xấu hổ. Rồi cô phá hỏng mọi thứ bằng tiếng thở dài biết ơn quá sâu của mình.

Mũi Thưởng ngoạn. Anh đọc to tấm biển.

Có nhiều người xung quanh, dù hôm đó là một chiều làm việc trong tuần tháng Năm, khi các kỳ nghỉ còn chưa bắt đầu. Một lúc nữa họ có thể bình luận chuyện đó. Xe hơi đỗ dọc theo cả đoạn đường lên nhà hàng, và những hàng người trên đài ngắm cảnh chờ dùng ống nhòm tiền xu.

“Aha.” Anh phát hiện ra một chiếc xe hơi đang đánh ra khỏi chỗ đậu. Một sự trì hoãn ngắn ngủi khỏi mọi nhu cầu nói chuyện, trong lúc anh chờ máy, lùi để lấy chỗ cho chiếc xe kia, rồi lách vào điểm đỗ tương đối hẹp. Họ bước ra cùng một lúc, đi vòng qua xe để gặp nhau trên vỉa hè. Anh quay phía này phía kia, như thể đang quyết định xem họ sẽ bước về nơi nào. Khách đi bộ đến và đi trên bất cứ con đường nào trong tầm mắt.

Chân cô run rẩy. Cô không thể chịu đựng lâu hơn được nữa.

“Đưa tôi đi đâu đi,” cô nói.

Anh nhìn gương mặt cô. Anh đáp, “Ừ.”

Ở đó trên vỉa hè dưới cái nhìn của thế giới. Hôn như điên dại.

***

Đưa tôi là lời cô nói. Đưa tôi đi đâu đi, không phải Mình đi đâu đi. Điều đó quan trọng với cô. Sự rủi ro, sự phó mặc quyền lực. Sự rủi ro và sự phó mặc hoàn toàn. Mình đi – như thế có thể có rủi ro, nhưng không có sự từ bỏ, vốn là khởi đầu đối với cô, trong toàn bộ cơn hồi tưởng về khoảnh khắc này, của cuộc sa ngã tình ái. Và nếu đến lượt mình anh từ bỏ thì sao? Đi đâu? Như thế cũng không được. Anh phải nói đúng câu anh đã nói. Anh phải nói .

Anh đưa cô đến căn hộ nơi anh đang lưu trú, ở Kitsilano. Nhà là của cậu bạn anh đang đi vắng trên một con thuyền đánh cá, đâu đó ngoài khơi phía tây đảo Vancouver. Nó nằm trong một tòa nhà nhỏ, tươm tất, cao ba hoặc bốn tầng, ít tốn kém hơn là trông rẻ tiền. Tất cả những gì cô nhớ về nó là những viên gạch kính xung quanh lối vào và dàn hi-fi phức tạp và đồ sộ thời đó, có vẻ là đồ nội thất duy nhất trong căn phòng khách.

Cô muốn một cảnh tượng khác, và đó là cảnh tượng cô đã thay thế, trong ký ức mình. Một khách sạn nhỏ cao sáu hay bảy tầng, từng là nơi ở thời thượng, ở West End của Vancouver. Rèm đăng ten vàng, trần cao, có thể có một cái chuồng sắt ngoài cửa sổ, cái ban công giả. Không có gì thực sự dơ bẩn hay tai tiếng, chỉ một bầu không khí của sự chung sống lâu dài của những nỗi buồn và tội lỗi riêng tư. Ở đó cô sẽ phải cúi đầu và khép tay sát người để đi qua cái sảnh nhỏ, cả cơ thể tràn ngập nỗi hổ thẹn khôn xiết. Và anh sẽ nói với lễ tân bằng một thứ giọng trầm, thứ giọng không thông báo nhưng cũng không che giấu hay xin lỗi về mục đích của họ.

Rồi đến chuyến đi trong chiếc lồng thang máy kiểu cũ, được điều khiển bởi một ông già – hoặc có lẽ một bà già, có lẽ một người què quặt, một kẻ bầy tôi ranh mãnh của tội lỗi.

Sao cô dựng lên, sao cô thêm cảnh tượng ấy? Đó là vì khoảnh khắc phơi bày, cảm giác e thẹn và kiêu hãnh mãnh liệt xâm chiếm cơ thể cô trong lúc cô bước qua cái sảnh (tưởng tượng) đó, và vì âm thanh của giọng nói anh – sự thận trọng và sức mạnh của nó – nói với lễ tân những lời cô không thể nghe ra.

Có thể nó là tông giọng của anh trước một hiệu thuốc cách căn hộ vài dãy nhà, sau khi anh dừng xe và nói, “Đợi đây một lát.” Những sắp xếp thực tế, vốn có vẻ buồn chán và nản lòng trong đời sống hôn nhân, trong những hoàn cảnh khác như thế này lại có thể kích thích một sức nóng âm ỉ trong cô, một cơn mê man và cảm giác mong mỏi phục tùng mới lạ.

***

Sau khi trời tối, cô được đưa về, xuyên qua công viên và qua cầu và xuyên qua West Vancouver, đi qua nhà cha mẹ Jonas chỉ một quãng ngắn. Cô đến vịnh Horseshoe gần như vào đúng phút cuối, và bước lên phà. Những ngày cuối tháng Năm là những ngày dài nhất trong năm và, dù có ánh đèn của bến phà và ánh đèn của những chiếc xe hơi đang đổ vào bụng phà, cô vẫn có thể thấy chút ửng sáng trên bầu trời phía tây và, sau nó, mô đất sẫm đen của một hòn đảo – không phải Bowen mà là một hòn đảo cô không biết tên – gọn gàng như một chiếc bánh pudding đặt trong cửa vịnh.

Cô phải hòa vào đám đông chen lấn đang tìm đường lên cầu thang, và khi lên đến khoang hành khách cô ngồi vào chỗ đầu tiên cô thấy. Cô còn chẳng buồn, như cô vẫn thường, tìm một chỗ cạnh cửa sổ. Cô có một tiếng rưỡi trước khi phà cập bến bên kia eo biển, và trong khoảng thời gian này cô còn bao việc cần làm.

Chẳng bao lâu sau khi phà rời đi những người ngồi cạnh cô bắt đầu nói chuyện. Họ không phải những người nói chuyện tình cờ gặp nhau trên phà mà là bạn bè hay họ hàng quen biết nhau và tìm được rất nhiều chuyện để nói trong suốt chuyến phà. Thế nên cô đứng dậy và trèo lên boong phà, nơi luôn luôn có ít người hơn, và ngồi lên một trong những chiếc thùng đựng phao cứu sinh. Cô đau ở những nơi biết trước là sẽ đau và không biết trước.

Việc cô phải làm, theo như cô thấy, là ghi nhớ mọi thứ – và với cô ghi nhớ có nghĩa là trải nghiệm nó trong tâm trí, một lần nữa – rồi lưu giữ nó mãi mãi. Trải nghiệm của ngày hôm nay được sắp xếp trật tự, không phần nào bị bỏ bê hay để bừa bãi, tất cả đều được thu nhặt như của báu và được kết thúc, được lưu giữ.

Cô giữ trong mình hai dự đoán, dự đoán thứ nhất dễ chịu và dự đoán còn lại đủ dễ dàng để chấp nhận trong hiện tại, dẫu chắc chắc nó sẽ trở nên khó khăn hơn với cô sau này.

Cuộc hôn nhân của cô với Pierre sẽ tiếp tục, nó sẽ kéo dài.

Cô sẽ không bao giờ gặp lại anh bác sĩ.

Cả hai hóa ra đều đúng.

***

Cuộc hôn nhân của cô đã kéo dài, trong hơn ba mươi năm sau đó – cho đến khi Pierre qua đời. Trong giai đoạn đầu và không quá đau đớn của căn bệnh của anh, cô đọc anh nghe trọn vẹn một vài cuốn sách cả hai cùng đọc nhiều năm trước và có ý định bắt đầu lại. Một trong số đó là Cha và con. Sau khi cô đọc cảnh Bararoz bày tỏ tình yêu mãnh liệt của mình với Anna Sergeyevna, và Anna hoảng loạn, họ dừng lại để thảo luận. (Không phải tranh cãi – họ đã trở nên quá dịu dàng để có thể làm điều đó.)

Meriel muốn cảnh này diễn ra khác đi. Cô tin Anna sẽ không phản ứng như thế.

“Đấy là ông nhà văn,” cô nói. “Em không thường thấy như thế, nhưng ở đây em thấy đấy chỉ là ông Turgenev đến kéo họ ra khỏi nhau và làm thế để phục vụ cho mục đích nào đấy của chính ông ấy thôi.”

Pierre mỉm cười yếu ớt. Mọi biểu lộ của ông đã trở nên mờ nhạt. “Em nghĩ cô ấy sẽ đầu hàng?”

“Không. Không phải đầu hàng. Em không tin cô ấy – em nghĩ cô ấy cũng cuồng si như cậu ta thôi. Họ sẽ tiến tới.”

“Lãng mạn đấy. Em đang bóp méo các thứ để tạo ra kết thúc có hậu.”

“Em đâu nói gì đến kết thúc.”

“Nghe này,” Pierre kiên nhẫn nói. “Nếu Anne chấp nhận, thì đấy là vì cô ấy yêu cậu ta. Khi chuyện kết thúc cô ấy còn yêu cậu ta nhiều hơn trước. Chẳng phải phụ nữ là như thế sao? Ý anh là nếu họ yêu nhau ấy? Cậu ta thì làm gì – cậu ta sẽ bỏ đi ngay sáng hôm sau, có khi còn không nói với cô ấy một lời. Đấy là bản chất của cậu ta. Cậu ta không muốn yêu cô ấy. Thế thì làm sao mà có hậu hơn được?”

“Họ sẽ có gì đó. Trải nghiệm của họ.”

“Cậu ta sẽ quên hết thôi, rồi cô ấy thì chết vì hổ thẹn và bị từ chối. Cô ấy thông minh. Cô ấy biết thế.”

“Ừ thì,” Meriel nói, dừng một lúc vì cảm thấy bị dồn ép. “Mà Turgenev đâu có nói thế. Ông ấy bảo cô ấy hoàn toàn sửng sốt. Ông ấy bảo cô ấy lạnh nhạt.”

“Thông minh làm cô ấy lạnh nhạt. Thông minh đồng nghĩa với lạnh nhạt, đối với phụ nữ.”

“Đâu phải.”

“Anh nói ấy là trong thế kỷ 19. Trong thế kỷ 19 thì thế.”

***

Cái đêm hôm đó trên phà, trong khoảng thời gian mà cô nghĩ mình sẽ sắp xếp mọi thứ, cô đã chẳng làm gì như thế. Cái mà cô trải qua là lớp lớp làn sóng hồi tưởng mãnh liệt. Và đây cũng là cái mà cô sẽ tiếp tục trải qua – với tần suất thưa dần – trong những năm sau đó. Cô sẽ vẫn góp nhặt những thứ mà cô đã quên, và chúng sẽ vẫn làm cô choáng váng. Cô sẽ lại nghe hoặc thấy một điều gì đó – âm thanh họ cùng phát ra, cái nhìn trao nhau giữa họ, của thừa nhận và khích lệ. Một cái nhìn theo có vẻ khá vô cảm, nhưng tôn trọng sâu sắc và thân mật hơn bất cứ cái nhìn nào giữa những người đã lập gia đình, hay giữa những người nợ nhau bất cứ điều gì.

Cô vẫn nhớ đôi mắt màu nâu xám của anh, cái nhìn cận kề làn da thô ráp của anh, vòng tròn như một vết sẹo cũ bên cạnh mũi anh, bề rộng trơn trượt của tấm ngực anh khi anh trườn lên khỏi người cô. Nhưng cô không thể có được một mô tả đúng nghĩa về diện mạo anh. Cô tin mình đã cảm thấy sự hiện diện của anh quá mạnh mẽ, ngay từ lúc ban đầu, đến nỗi quan sát thông thường là không thể. Cơn hồi tưởng đột ngột về những khoảnh khắc ngập ngừng và thăm dò ban đầu của họ vẫn có thể làm cô thu mình lại, như thể để bảo vệ sự ngạc nhiên thơ dại của cơ thể cô, tiếng gầm của ham muốn. Tình-yêu-của-em-tình-yêu-của-em, cô thì thầm một cách máy móc, khó nghe, những từ như một thang thuốc đắp bí mật.

Khi cô thấy ảnh anh trên báo, chuyện này chưa diễn ra ngay. Mẩu báo được gửi đến từ mẹ Jonas, chừng nào bà còn sống bà nhất định còn giữ liên lạc, và nhắc họ, bất cứ khi nào bà có thể, về Jonas. “Còn nhớ cậu bác sĩ ở đám tang Jonas không?” bà viết bên trên một dòng tít nhỏ. “Bác sĩ vùng cao qua đời trong tai nạn máy bay.” Đó là bức ảnh cũ, chắc chắn, được làm mờ in lại trên báo. Một khuôn mặt khá rắn chắc, đang cười – điều mà cô chưa bao giờ nghĩ anh sẽ làm trước máy ảnh. Anh không qua đời trên máy bay của mình mà trong một vụ tai nạn trực thăng trên đường bay cấp cứu. Cô đưa mẩu báo cho Pierre. Cô hỏi, “Đã bao giờ anh biết sao anh ấy lại đến lễ tang chưa?”

“Chắc họ là bạn bè gì đấy. Đều là những linh hồn lạc lối tận miền bắc.”

“Anh nói chuyện gì với anh ấy thế?”

“Cậu ta bảo có lần cậu ta đưa Jonas đi tập bay. Cậu ta bảo, ‘Chẳng bao giờ tập lại.’”

Rồi Pierre hỏi, “Cậu ta đưa em đi đâu đúng không nhỉ? Đâu thế?”

“Đến Lynn Valley. Thăm Bác Muriel.”

“Thế bọn em nói chuyện gì?”

“Em thấy anh ấy khó bắt chuyện.”

Việc anh đã chết dường như không ảnh hưởng nhiều đến những cơn mơ mộng của Meriel – nếu ta có thể gọi như thế. Những cơn mơ mộng cô tưởng tượng ra các cuộc gặp tình cờ, thậm chí những cuộc tái hợp được dàn xếp một cách tuyệt vọng, chưa bao giờ có một chỗ đứng trong thực tại, trong bất cứ trường hợp nào, và không được sửa vì anh đã chết. Chúng phải tự phai mờ theo cái cách mà cô không kiểm soát và chưa bao giờ hiểu được.

Khi cô đang trên đường trở về nhà đêm hôm đó, trời bắt đầu mưa, không quá to. Cô ở ngoài boong phà. Cô đứng dậy đi lại và không thể ngồi lại nắp thùng phao cứu sinh mà không làm ướt một chỗ to trên váy. Thế nên cô nhìn mãi vào đám bọt nước phía sau con phà và chợt nghĩ rằng trong một thể loại truyện nào đó – không phải thể loại mọi người còn viết ra nữa – chuyện cô phải làm là gieo mình xuống dòng nước. Ngay khi cô, tràn đầy hạnh phúc, được tưởng thưởng mà cô chắc chắn không bao giờ có được lần nữa, từng tế bào trong cơ thể cô căng đầy một lòng tự tôn ngọt ngào. Một hành động lãng mạn có thể được xem – từ một góc độ bị cấm đoán – là vô cùng duy lý.

Cô có bị cám dỗ? Có lẽ cô chỉ để mình tưởng tượng cảnh bị cám dỗ. Có lẽ không có chút gì phục tùng, dẫu phục tùng là chuyện của ngày hôm ấy.

***

Phải đến khi Pierre qua đời cô mới nhớ thêm một chi tiết.

Anh chở cô về vịnh Horseshoe, tới bến phà. Anh bước ra khỏi xe và đi vòng qua phía cô. Cô đứng đó, chờ nói lời tạm biệt với anh. Cô bước một bước về phía anh, để hôn anh – chắc chắn là một chuyện tự nhiên, sau những giờ trước đó – và anh nói, “Đừng.”

“Đừng,” anh nói. “Tôi không bao giờ làm vậy.”

Dĩ nhiên, chuyện đó không đúng, chuyện anh chưa bao giờ làm. Chưa bao giờ hôn ở bên ngoài, nơi ai cũng có thể thấy. Anh mới làm vậy hồi chiều, ở Mũi Thưởng ngoạn.

Đừng.

Đơn giản. Một lời cảnh báo. Một lời khước từ. Bảo vệ cô, có thể nói vậy, cũng như bảo vệ chính anh. Ngay cả khi anh không buồn bận tâm điều ấy trước đó trong ngày.

Tôi không bao giờ làm vậy là cái gì đó khác hoàn toàn. Một dạng cảnh báo khác. Một thông tin không làm cô vui nổi, dẫu có thể là nhằm ngăn cô mắc phải một sai lầm nghiêm trọng. Để cứu cô khỏi những hy vọng hão huyền và nỗi nhục nhã của một kiểu sai lầm nhất định.

Thế thì họ đã tạm biệt nhau như thế nào? Họ có bắt tay không? Cô không nhớ nổi.

Nhưng cô nghe thấy giọng anh, sự nhẹ nhàng và cả sức nhẹ trong tông giọng anh, cô thấy khuôn mặt kiên quyết, chỉ thoáng nhẹ nhàng của anh, cô cảm thấy cái dịch nhẹ ra khỏi tầm tay mình. Cô không nghi ngờ việc ký ức này là thật. Cô chỉ không biết sao mình có thể đè nén nó được đến thế. Trong ngần ấy năm.

Cô có ý nghĩ là nếu cô đã không thể làm thế, cuộc đời cô có thể đã khác.

Như thế nào?

Có thể cô đã không ở với Pierre. Có thể cô đã không thể giữ được cân bằng. Cố gắng ghép nối những gì được nói ở bến phà với những gì được nói và làm trước đó trong ngày có thể đã làm cô tỉnh táo hơn và tò mò hơn. Lòng kiêu hãnh hay tính cứng đầu có thể đã có vai trò nào đó – muốn người đàn ông nuốt lại những lời ấy, từ chối học bài học của mình.

Còn một kiểu cuộc sống khác mà cô đã có thể có – một cuộc sống thôi thúc và phiêu lưu. Nói thế không có nghĩa là cô sẽ thích nó hơn. Có lẽ vì tuổi tác (một điều mà cô luôn quên tính đến), và vì bầu không khí loãng và lạnh sau cái chết của Pierre, mà cô nghĩ về nó chỉ như một kiểu nghiên cứu có những cạm bẫy và thành tựu của nó.

Dẫu sao, có thể ta cũng không tìm được gì nhiều đến vậy. Có thể cùng một điều lặp đi lặp lại – có thể là một thực tế hiển nhiên nhưng đáng lo ngại nào đó về chính mình. Trong trường hợp của cô, đó là cái tính cẩn trọng ấy – hay ít nhất là một kiểu quản lý cảm xúc ngặt nghèo nào đó – đã là ánh sáng dẫn đường của cô từ lúc ban đầu.

Động tác tự bảo vệ nho nhỏ mà anh tạo ra, lời cảnh báo tử tế và hết mực, thái độ cứng nhắc đã trở nên hơi sáo mòn với anh, như một vẻ vênh vang lỗi mốt. Giờ thì cô có thể nhìn anh với một sự mơ hồ thường nhật, như thể anh từng là chồng cô.

Cô tự hỏi có phải anh sẽ ở lại theo cách ấy, hay còn vai trò nào khác đang chờ anh, ở phía trước.

Bản dịch © 2016 Nguyễn Huy Hoàng.

Advertisement

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

Information

This entry was posted on February 11, 2016 by in Truyện and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

%d bloggers like this: