Nguyễn Huy Hoàng

the star is fading

Truyện ngắn: “Chờ đợi” – Amos Oz

amos oz.jpg

Photo by George Etheredge for The New York Times

Amos Oz (1939–) là nhà văn người Israel và giáo sư ngành văn học Hebrew tại Đại học Ben-Gurion. Ông được trao giải Goethe năm 2005, giải Heinrich Heine năm 2008, và giải Franz Kafka năm 2013. Truyện ngắn “Waiting,” bản dịch tiếng Anh từ tiếng Hebrew của Jill Sand D’Angelo và Amos Oz, được đăng trên tạp chí The New Yorker (December 8, 2008 Issue).

Chờ đợi

Bao quanh làng cổ Tel Ilan là những vườn cây và khóm cây. Vườn nho mọc trên những sườn đồi phía Đông ngôi làng, mái ngói đỏ của các ngôi nhà trong làng ngạt dưới tán lá dày của những cây hạnh nhân lâu năm. Dân làng nhiều người vẫn tiếp tục truyền thống nông nghiệp với sự trợ giúp của những công nhân nhập cư sống trong các túp lều xiêu vẹo. Một số cho thuê đất, chuyển sang công nghiệp hộ gia đình và mở nhà trọ, phòng trưng bày nghệ thuật, và cửa hàng thời trang, trong khi những người khác tìm việc ở nơi khác. Ở quảng trường trung tâm là hai nhà hàng thượng hạng cùng một nhà buôn rượu địa phương và một cửa hàng vật nuôi chuyên về cá nhiệt đới. Một người dân làng đã mở một xưởng sản xuất làm đồ nội thất giả cổ. Vào cuối tuần, Tel Ilan tràn ngập du khách và những người săn đồ giá rẻ. Nhưng đến trưa thứ Sáu thì chỗ nào cũng đóng cửa cho đến hết ngày, các cư dân ngủ đằng sau những cánh cửa chớp khép kín.

Benny Avni, chủ tịch Hội đồng Quận Tel Ilan, là một người đàn ông cao lêu nghêu, vai gù và ưa quần áo nhàu nhĩ và áo len quá khổ, làm anh trông như một con gấu. Anh đi chúi người về trước với dáng vẻ cứng đầu, như chống lại một cơn gió mạnh. Mặt anh dễ nhìn, trán cao, miệng thanh và đôi mắt nâu tò mò một cách nồng ấm như nói, Đúng đấy, tôi thích anh, và đúng đấy, tôi muốn biết thêm về anh. Anh có biệt tài là từ chối mà không làm người bị từ chối nhận ra mình vừa bị từ chối.

1h chiều một ngày thứ Sáu tháng Hai, Benny Avni ngồi một mình trong văn phòng trả lời thư của những người dân có thắc mắc. Các văn phòng quận đóng cửa sớm vào thứ Sáu, nhưng Benny có thói quen ở lại muộn vào cuối tuần, đích thân trả lời mọi lá thư. Làm xong, anh thường về nhà, ăn trưa, tắm, rồi ngủ đến chiều. Các tối thứ Sáu, Benny Avni cùng vợ, Nava, ca hát trong một nhóm đồng ca nghiệp dư ở nhà Dalia và Avraham Levine, cuối đường Beth Hashoeva.

Đang trả lời nốt vài lá thư cuối thì anh nghe thấy một tiếng gõ ngập ngừng ở cửa. Văn phòng với đồ đạc sơ sài của anh, một cơ sở tạm thời mà anh dùng trong lúc tòa nhà quận được tu bổ, chỉ có một chiếc bàn, hai chiếc ghế, và một chiếc tủ đựng hồ sơ.

Benny Avni nói, “Mời vào,” và ngước lên từ đống giấy tờ.

Bước vào phòng là một thanh niên Ả Rập tên Adel, một cậu học trò cũ giờ là người làm vườn thường trú ở nhà Rachel Franco, ở rìa làng, gần hàng cây bách của nghĩa trang.

Benny Avni mỉm cười, “Ngồi đi.”

Nhưng thay vì ngồi xuống, Adel, một thanh niên nhỏ, gầy, đeo kính, lại ngại ngùng đứng lại gần bàn Benny Avni, cúi đầu kính cẩn và xin lỗi, nói, “Cháu có làm phiền chú không ạ? Cháu biết văn phòng đang đóng cửa.”

“Không sao. Ngồi đi.”

Adel do dự, rồi ngồi tựa vào mép ghế, tư thế thẳng đảm bảo cậu không chạm vào lưng ghế. “Là thế này ạ: cô nhà chú thấy cháu đi về đằng này nên bảo cháu đưa cái này qua. Thật ra là một lá thư.”

Benny Avni với tay ra lấy lá thư được gấp lại từ Adel. “Cháu gặp cô ở đâu?”

“Gần Công viên Tưởng niệm.”

“Cô đi đằng nào?”

“Dạ không. Cô đang ngồi trên ghế.”

Adel đứng lên, dừng lại, rồi hỏi cậu có thể giúp được gì nữa không.

Benny Avni mỉm cười và nhún vai. “Thế được rồi cháu.”

Adel đáp, “Cảm ơn chú nhiều,” rồi về.

Benny Avni giở lá thư ra, được viết trên một tờ giấy xé từ sổ tay nhà bếp của Nava. Trong nét chữ tròn trịa của cô, anh đọc được bốn chữ: “Đừng lo cho em.”

Bốn chữ ấy làm anh bối rối. Anh và Nava luôn ăn trưa cùng nhau: buổi trưa, cô từ trường tiểu học nơi cô dạy về nhà và chờ anh về ăn. Sau mười bảy năm kết hôn, Nava và Benny vẫn yêu nhau, nhưng giao tiếp thường nhật giữa hai người lại mang một thái độ khách sáo lẫn nhau pha lẫn sự thiếu kiên nhẫn dồn nén. Cô không ưa việc quan liêu của anh, cũng không thích cách công việc của anh theo anh về nhà hay sự hòa đồng vô tư mà anh ban phát tràn lan và bừa bãi. Về phần mình, anh dần mệt mỏi với lòng sùng mộ nhiệt tình mà cô dành cho việc nặn tượng nghệ thuật nung trong lò ở sân sau. Anh thấy phát ốm với mùi đất sét nung ám vào quần áo cô.

Benny Avni gọi vào số của mình và để nó reo tám chín lần trước khi tự đồng ý là Nava không ở nhà. Anh nghĩ việc cô đi trước khi anh về nhà thật lạ, và lạ hơn là cô còn gửi thư qua Adel mà không buồn nói cô đi đâu hay có về không. Lá thư làm anh bối rối, và anh thấy cậu đưa thư đáng ngờ. Nhưng anh không lo lắng: anh với Nava vẫn luôn để lại thư cho nhau dưới lọ hoa trong phòng khách.

Benny Avni viết nốt hai lá thư cuối—một cho Ada Dvash, về việc nâng cấp bưu điện, và một cho thủ quỹ hội đồng, về kế hoạch lương hưu của một nhân viên. Anh đặt thư gửi đi lên kệ, kiểm tra cửa sổ và cửa chớp, mặc áo khoác da, khóa cả hai chốt cửa, rồi về. Anh định đi qua Công viên Tưởng niệm, qua chiếc ghế có thể Nava vẫn đang ngồi, để hai người có thể cùng về. Nhưng sau vài bước, anh quay lại văn phòng, vì anh nghĩ có thể mình đã quên tắt máy tính, hay anh để đèn nhà vệ sinh vẫn bật? Nhưng máy tính đã tắt còn nhà vệ sinh thì tối, nên Benny Avni lại khóa cả hai chốt cửa lại rồi đi tìm vợ.

***

Nava không ở trên ghế trong Công viên Tưởng niệm. Cô không ở đâu cả. Nhưng Adel, cậu học sinh gầy, thì ở đó, ngồi một mình, một cuốn sách mở để úp xuống đùi. Cậu nhìn chằm chằm vào con phố trong lúc một con chim sẻ hót trên những cái cây bên trên. Benny Avni đặt tay lên vai Adel và hỏi nhẹ nhàng, như sợ làm cậu đau, “Cô Nava không ở đây à?” Adel trả lời là lúc trước cô ở đây, nhưng giờ thì không còn nữa.

“Chú biết là cô đi rồi,” Benny Avni hỏi, “nhưng chú nghĩ chắc là cháu biết cô đi đâu chứ?”

Adel đáp, “Thứ lỗi cho cháu. Cháu thực sự rất xin lỗi.”

Benny Avni trả lời. “Không sao. Không phải lỗi của cháu.”

Anh về nhà theo phố Hội đường và phố Các bộ lạc Israel, bước nghiêng một góc, người đổ nhẹ về trước, như đang vật lộn với một sức mạnh vô hình. Ai anh gặp trên đường cũng chào anh với một nụ cười; Benny Avni là một chủ tịch hội đồng được yêu mến. Anh cười ấm áp đáp lại, hỏi, “Anh thế nào?” hoặc “Có gì mới không?,” thỉnh thoảng lại báo cáo rằng vấn đề vết nứt trên vỉa hè đang được xử lý. Chẳng mấy chốc mọi người đều đã ở nhà ăn trưa rồi ngủ, và các con phố của làng lại vắng lặng.

Cửa trước nhà anh không khóa, và trong bếp radio vẫn bật nhỏ tiếng. Ai đó đang bàn về sự phát triển của hệ thống đường sắt hành khách và lợi ích hiển nhiên của tàu hỏa so với ô tô. Benny Avni nhìn xuống chỗ quen thuộc—dưới lọ hoa trong phòng khách—tìm thư của Nava mà không thấy. Trên bàn bếp bữa trưa đang đợi anh, một chiếc đĩa úp lên một chiếc đĩa khác để giữ ấm: gà, khoai tây nghiền, cà rốt chín, và đậu xanh. Dao và dĩa đặt hai bên đĩa, và dưới dĩa là một chiếc khăn vải gấp lại. Benny Avni bỏ bữa trưa vào lò vi sóng trong hai phút vì dù có nắp đậy tạm thời thức ăn vẫn gần như đã lạnh. Trong lúc chờ, anh mở tủ lạnh lấy một chai bia, rót ra cốc. Bữa trưa vừa chuẩn bị xong anh đã vội vã ăn ngay mà không để ý mình đang ăn gì, nghe đài, giờ đang phát nhạc nhẹ xen những đoạn quảng cáo vô tận. Trong một quảng cáo, anh nghĩ mình nghe thấy tiếng bước chân của Nava trên lối đi trước nhà? Anh nhìn qua cửa sổ bếp, nhưng sân chẳng có ai và tất cả những gì anh có thể thấy, giữa đám hoa kế và sắt vụn, là chiếc xe đẩy hư nát với hai bánh gỉ sét.

Ăn xong, anh bỏ đĩa vào bồn rửa và tắt radio. Một vẻ im lặng tột cùng bao trùm. Chỉ có tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường là có thể nghe thấy. Hai cô con gái sinh đôi của anh, Yuval và Inbal, đang có một chuyến đi thực tế ở Galilea Thượng. Anh xuống hành lang đi tắm và thấy cửa phòng hai cô con gái đã đóng. Anh nhòm vào căn phòng tối. Mùi xà phòng và là ủi nhẹ bay trong không khí. Anh nhẹ nhàng đóng cửa và tiếp tục đi về phía nhà tắm. Anh cởi áo rồi quần, nhưng rồi, mặc đồ lót, đột nhiên anh đổi ý và đến chỗ điện thoại. Anh không lo lắng, nhưng vẫn tự hỏi, Nava đi đâu được nhỉ, và sao cô không chờ anh ăn trưa như mọi lần?

Anh gọi cho Gila Steiner và hỏi Nava có ở đấy không.

Gila đáp, “Không. Sao thế? Cô ấy bảo sẽ qua đây à?”

Benny Avni nói, “Vấn đề là thế đấy. Cô ấy không nói đi đâu cả.”

Gila nói, “Cửa hàng bách hóa đóng cửa lúc hai giờ. Chắc cô ấy qua đó mua đồ.”

Benny Avni đáp, “Cảm ơn, Gila. Được rồi. Anh nghĩ cô ấy về sớm thôi. Anh không lo đâu.”

Tuy nhiên, anh vẫn dò danh bạ tìm số của cửa hàng bách hóa. Chuông reo một lúc lâu. Cuối cùng, giọng nam cao của Ông già Lieberson trả lời bằng một bài kiểu thánh ca, “Vâng, xin nghe. Đây là Shlomo Lieberson của cửa hàng. Chúng tôi có thể giúp gì cho quý vị?”

Benny Avni hỏi về Nava. Ông già Lieberson buồn bã trả lời, “Không, Đồng chí Avni ạ, tôi rất tiếc, người vợ quyến rũ của anh vẫn chưa góp mặt ở đây hôm nay. Chúng tôi vẫn chưa có cái vinh dự ấy. Và tôi đang nghĩ rất có thể chúng tôi sẽ chẳng có đâu, vì đúng mười bốn giờ chúng tôi sẽ đóng mọi hoạt động và lui về chốn cư ngụ để chuẩn bị đón lễ Nữ hoàng Shabbat.”

Benny Avni vào phòng tắm, cởi nốt đồ, chờ nước nóng xuất hiện, rồi tắm một lúc lâu. Anh nghĩ mình nghe thấy tiếng cửa mở và vì thế, khi lau người, anh gọi, “Nava? Em à?” Nhưng không có tiếng trả lời. Anh mặc đồ lót sạch và quần kaki rồi ra khỏi nhà tắm, tìm trong bếp, ra phòng khách và ngó những chiếc ghế lười đối diện TV, rồi vào phòng ngủ và ra ngoài sân thượng quây kín mà Nava dùng làm “xưởng sáng tác.” Cô thường nhốt mình trên sân hàng giờ, nặn những bức tượng nhỏ bằng đất sét, những sinh vật giả tưởng cũng như tượng bán thân nhỏ của những võ sĩ hàm vuông và mũi thỉnh thoảng bị gãy. Lò nung ở một nhà kho ở sân sau. Thế nên Benny đến nhà kho và bật đèn và đứng đó một lúc, chớp mắt, nhưng tất cả những gì anh có thể thấy là những bức tượng biến dạng và chiếc lò nguội ngắt với bóng tối bao quanh, bóng tối bao quanh cả các giá kệ bụi bặm.

Benny Avni tự hỏi mình có nên nằm xuống và thôi chờ Nava hay không. Anh trở lại bếp để cho đĩa vào máy rửa. Anh nhìn vào trong tìm bất cứ manh mối nào xem cô đã ăn gì trước khi đi chưa, hay là cô chưa ăn gì? Nhưng máy rửa đã gần đầy, và chẳng có cách nào đoán được chiếc đĩa nào được dùng trước đó trong ngày còn chiếc nào thì ở đó từ trước.

Một nồi thịt gà chín đặt trên bếp. Nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy Nava đã ăn rồi để phần gà cho anh hay là chưa ăn gì. Benny Avni ngồi cạnh điện thoại và gọi cho Batya Rubin. Chuông reo mười, rồi mười lăm lần. Không có ai nghe. Benny tự nhủ, Đừng có ngốc thế!, rồi vào phòng ngủ trưa. Ở cuối giường là dép của Nava: nhỏ, gót hơi sờn, và sặc sỡ, như một cặp thuyền đồ chơi. Anh nằm bất động, mắt dán lên trần. Nava rất dễ bị xúc phạm, và qua nhiều năm anh đã học được rằng cố gắng xoa dịu cô bằng lời nói chỉ làm mọi chuyện tồi tệ hơn. Nên anh đã chọn cách thực hành kiềm chế và để thời gian xoa dịu cơn giận của cô. Cô thường nguôi ngoai nhưng không quên. Một lần, bạn thân nhất của cô, tiến sĩ Gila Steiner, tiếp cận anh với ý tưởng làm một buổi triển lãm tượng của Nava ở phòng trưng bày quận. Cuối cùng anh quyết định như thế thì quá mạo hiểm: nói cho cùng, tượng của Nava không hơn gì tác phẩm của một bà nội trợ nghiệp dư, và triển lãm của cô sẽ phù hợp hơn với một trong các phòng trưng bày của trường tiểu học, nhằm tránh những tin đồn về quan hệ gia đình trị. Nava không nói gì, nhưng mấy đêm cô đứng trong phòng ngủ là quần áo đến ba bốn giờ sáng. Cô là mọi thứ—cả khăn tắm lẫn thảm.

Hai mươi phút sau, Benny Avni đột nhiên đứng dậy, xuống tầng hầm và bật đèn, thiêu cháy cả một đám côn trùng. Anh xem xét các hòm và va ly, sờ mũi khoan điện, gõ lên thùng rượu vang, nó vọng lại bằng một tiếng rỗng mơ hồ. Rồi anh tắt đèn, lên nhà vào bếp, lưỡng lự một lúc, khoác chiếc áo da bên ngoài áo len bùng nhùng, rồi ra khỏi nhà mà không khóa cửa. Anh sải bước nghiêng về trước một góc, như thể đang chiến đấu với một cơn gió dữ, và đi tìm vợ mình.

***

Chiều thứ Sáu các con phố trong làng đều vắng vẻ. Mọi người nghỉ ở nhà để chuẩn bị cho lễ hội đêm. Hôm ấy trời xám xịt và ẩm, những đám mây thấp đè lên các mái nhà và một làn sương mỏng trôi bên dưới. Giấc ngủ bọc từng ngôi nhà đóng. Gió giữa ngày tháng Hai cuộn theo một mẩu báo mà Benny đuổi theo và bỏ vào thùng rác. Gần Vườn Cựu chiến binh, một con chó lai lớn bắt đầu bám theo anh, gầm gừ và nhe răng. Benny Avni quát con chó, nó dữ dằn hơn và trông như sẵn sàng xồ đến. Benny Avni nhặt một hòn đá ném vào không trung. Con chó lùi lại, đuôi quặp giữa hai chân; nó vẫn bám theo Benny Avni ở một khoảng cách an toàn. Thế là anh và con chó đi tiếp, cách nhau khoảng mười mét, rẽ trái vào phố Quốc phụ. Ở đây mọi cánh cửa chớp cũng đóng để mọi người ngủ. Hầu hết được sơn màu xám phai, một số nẹp gỗ chữ thập cong queo hoặc đã mất.

Qua nhiều năm, các khu vườn trước từng được chăm sóc cẩn thận của Tel Ilan đã bị bỏ rơi vào quên lãng. Benny Avni thấy ở chỗ này chỗ kia các chuồng bồ câu cũ nát, chuồng gia súc cải thành cửa hàng, khung xương một chiếc xe tải chìm vào hông của nó trong sự phát triển hoang dại bên cạnh một căn nhà kho bằng tôn bỏ hoang hay một chuồng chó trống. Hai cây cọ cổ thụ cũng từng được trồng trong vườn trước nhà anh, nhưng bốn năm trước Nava đã đòi đốn hạ, vì tiếng lá cọ vào cửa sổ phòng ngủ làm đêm cô không ngủ được và làm cô buồn.

Hoa nhài và măng tây mọc ở vài khoảnh sân, trong khi ở những khoảnh sân khác có cỏ dại dưới những cây cọ cao, xào xạc trong gió. Benny Avni chèo qua, tay vung đều nhịp, trong lúc qua phố Các bộ lạc Israel. Đến Công viên Tưởng niệm anh dừng lại một lúc ở chiếc ghế nơi mà, theo lời Adel, Nava đã ngồi khi đưa cho cậu lá thư viết “Đừng lo cho em.”

Trong lúc Benny Avni dừng lại ở chiếc ghế này, con chó lai cũng dừng lại, cách đó mười mét. Nó không gầm gừ cũng không nhe răng mà đang dò xét Benny bằng một cái nhìn khôn ranh, tò mò. Nava mang thai khi hai người còn là sinh viên chưa cưới ở Tel Aviv—cô học trường sư phạm, anh học trường kinh doanh. Họ lập tức đồng ý phá thai, nhưng hai tiếng trước giờ hẹn, lúc 10h sáng ở một phòng khám tư trên phố Reines, Nava đã đổi ý và gọi điện hủy. Cô gục đầu vào ngực anh và khóc. Anh đã xin cô hãy suy nghĩ hợp lý—suy cho cùng, thực sự đâu có lựa chọn nào, với hoàn cảnh của họ, và thủ tục cũng đâu phức tạp hơn nhổ răng khôn. Anh đợi cô ở quán cà phê bên kia phố và đọc báo số ngày hôm trước, đọc cả mục thể thao. Chưa đến hai tiếng sau, Nava xuất hiện với vẻ nhợt nhạt. Họ vung tiền vào một chiếc taxi về ký túc xá, nơi sáu bảy sinh viên ồn ào đang chờ Benny, đến họp một cuộc họp ủy ban đã lên kế hoạch từ trước. Nava nằm trên giường ở góc phòng, giấu mình dưới những lớp chăn. Nhưng tiếng tranh cãi, tiếng hò hét và cười đùa và khói thuốc vẫn len vào chăn, cô thấy yếu và buồn nôn và men theo tường đến nhà vệ sinh, đầu cô xoay mòng mòng và cơn đau trở lại khi thuốc tê đã hết, và ở trong ngăn nhà vệ sinh cô thấy ai đó đã nôn trên sàn và bệ xí và cô không nén được mình: cô cũng nôn theo. Cô giấu mình trong đó một lúc lâu, khóc, tay ôm đầu dựa vào tường, cho đến khi tất cả những vị khách ồn ào đã về và Benny tìm thấy cô run rẩy. Giữ vai cô, anh nhẹ nhàng dẫn cô về giường. Hai năm sau, họ kết hôn, nhưng Nava gặp vấn đề về thụ thai. Họ tham khảo nhiều bác sĩ khác nhau mời chào những biện pháp điều trị khác nhau. Năm năm sau, hai cô con gái sinh đôi ra đời, Yuval và Inbal. Nava và Benny không bao giờ nói lại về buổi chiều trong ký túc xá, như thể họ đã lặng lẽ đồng ý là chẳng có gì để nói. Nava dạy ở trường và nặn tượng. Cuối cùng, Benny Avni được bầu làm chủ tịch Hội đồng Quận Tel Ilan, nơi anh được nhiều người yêu mến, nhờ biết lắng nghe chu đáo và tính tình khiêm tốn. Nhưng anh biết cách chế ngự người khác, và anh làm được điều đó mà không làm người bị chế ngự nhận ra là mình đang bị chế ngự.

***

Ở góc phố Hội đường, anh dừng lại một lúc xem con chó lai có còn đi theo mình không. Con chó đứng ở một cổng vườn, đuôi kẹp giữa hai chân, mõm hơi há, nhìn Benny với sự kiên nhẫn và tò mò. Benny nói bằng giọng trầm, “Lại đây,” và con chó, hổn hển, vểnh tai lên và lắc cái lưỡi hồng. Rõ ràng, nó quan tâm đến Benny nhưng quyết tâm giữ khoảng cách. Không có linh hồn sống nào khác xuất hiện trong làng—ngay cả một con mèo hay một con chim. Chỉ có Benny Avni và con chó và những đám mây, xuống thấp đến nỗi gần như chạm vào ngọn đám cây bách.

Gần tháp nước trên cao là một hầm trú bom công cộng ngầm. Benny Avni thử mở cánh cửa sắt. Nó không khóa. Anh chui vào và lần tìm công tắc điện, nhưng điện ở hầm trú bom đã bị cắt. Ngay cả thế, anh vẫn xuống được mười hai bước. Một ánh sáng ẩm thấp, bẩn thỉu quét qua anh trong lúc anh lần sâu vào không gian tối, dò đường giữa những đồ vật mơ hồ—đống nệm, cái tủ xuống cấp. Anh hít một hơi sâu trong bầu không khí đặc, rồi quay lại, tìm đường về phía cầu thang. Lên trên, anh thử bật công tắc đèn lần nữa, rồi đóng cánh cửa sắt đằng sau lại và bước ra con phố vắng.

Gió đã lắng và sương mù đọng dày hơn, xóa bỏ đường nét của các ngôi nhà, có căn đã hơn một trăm năm tuổi. Lớp vữa màu vàng của các tòa nhà đã nứt và rụng, để lại những đốm trơ trụi ngắt quãng trên các bức tường. Những cây thông xám mọc trong sân. Những bức tường bách ngăn nhà này với nhà khác. Thỉnh thoảng anh lại thấy một cái máy đóng kiện han mòn hay một bồn giặt gỉ sét giữa một mớ thường xuân độc, cỏ mần trầu, và bìm bịp mọc um tùm.

Benny Avni huýt gọi con chó, nhưng nó vẫn giữ khoảng cách. Ở đằng trước hội đường—được xây khi làng thành lập, đầu thế kỷ trước—là một ki ốt treo tờ rơi cho rạp chiếu phim địa phương và nhà máy rượu, cũng như đăng các thông báo của hội đồng do chính Benny ký. Benny nấn ná bên những thông báo của mình, vì lý do nào đó chúng có vẻ thừa thãi hoặc hoàn toàn sai trái. Qua một bên khóe mắt, anh nghĩ mình thấy ai đó gù người ở cuối phố, nhưng khi quay đầu sang anh chỉ thấy những bụi cây trong sương mù. Ở đỉnh hội đường là một cái menorah bằng kim loại và cửa được trang trí bằng những con sư tử chạm khắc và những ngôi sao David. Anh leo lên năm bậc và thử mở cửa. Bên trong thánh đường, không khí lạnh, bụi bặm, và gần như tối đen. Trên chiếc rương phủ màn, dưới ánh sáng mờ của ngọn nến điện, anh đọc được dòng chữ: “Chúa luôn ở trước mặt con.” Benny Avni lang thang giữa các hàng ghế trong bóng tối, rồi trèo lên hàng dành cho phụ nữ. Rải rác trên các băng ghế là những cuốn sách cầu nguyện màu đen cũ nát. Mùi mồ hôi cũ quyện với mùi của những bìa sách cổ. Anh sờ tay xuống một chỗ ngồi, vì, trong một khoảnh khắc, anh tưởng có một chiếc khăn choàng hay khăn quàng bị bỏ lại.

Khi anh ra khỏi hội đường, con chó lai đang đợi anh dưới bậc thang. Lần này anh dậm chân và quát, “Đi đi! Biến!” Con chó, trên cổ đeo một tấm thẻ tên, nghiêng đầu và hổn hển như đang kiên nhẫn chờ một lời giải thích. Nhưng không có lời giải thích nào. Benny quay đi, vai gồ và áo len quá khổ thòi ra dưới áo khoác da, anh bước những bước rộng, nghiêng người về trước như hình nhân của một con tàu đang rẽ sóng. Con chó theo sau, luôn giữ một khoảng cách an toàn.

Cô ấy đi đâu nhỉ? Hay là cô đã quyết đến thăm một người bạn gái và bị trễ? Hay là cô bị giữ lại ở trường vì một vấn đề cấp bách nào đó? Hay là cô đang ở phòng khám? Mấy tuần trước, khi hai người cãi nhau, Nava đã nói lòng tốt của anh giống như một chiếc mặt nạ, và dưới chiếc mặt nạ: Siberia. Anh không trả lời, mà mỉm cười trìu mến, giống như anh vẫn làm khi cô giận. Điều này làm Nava mất bình tĩnh và hét lên, “Anh thì quan tâm cái gì! Vợ chồng mình không mà con cái mình cũng không!” Anh vẫn cười và đặt tay lên vai cô, nhưng cô gạt đi, đùng đùng xông ra ngoài, đóng sập cánh cửa đằng sau. Một tiếng sau, anh vào căn xưởng quây kín để đem cho cô một cốc trà thảo dược nóng pha mật ong. Anh nghĩ có thể cô sẽ bị cảm lạnh nhẹ. Nhưng mà không. Nava vẫn nhận cốc trà và nói, “Cảm ơn anh. Không cần phải làm thế đâu.”

***

Hay là trong lúc anh lang thang một mình trong sương mù cô đã về nhà? Anh nghĩ đến chuyện quay về. Nhưng ý nghĩ về căn nhà trống—đặc biệt là ý nghĩ về phòng ngủ trống với đôi dép sặc sỡ như những chiếc thuyền đồ chơi của cô ở cuối giường—đẩy lùi anh và khiến anh đi tiếp. Anh bước, vai chùng, dọc phố Hagefen và phố Tarpat, đến khi đến trường tiểu học của Nava. Một tháng vừa mới trôi qua kể từ khi anh thắng một cuộc tranh luận với các đối thủ ở Hội đồng Quận và Bộ Giáo dục về việc phân bổ quỹ cho bốn phòng học mới và một phòng tập thể dục lớn.

Những cánh cổng kim loại của trường đã khóa để đón lễ Sabbath. Cả tòa nhà và sân trường đều được bao bằng một hàng rào sắt bên trên có kẽm gai. Benny Avni đi quanh hàng rào hai lần trước khi tìm được một chỗ mà anh nghĩ mình có thể chui vào. Anh vẫy con chó trên vỉa hè đối diện, nắm các thanh sắt, đu mình lên, dẹp dây kẽm sang một bên, làm đứt tay, và nhảy vào trong, hơi vẹo mắt cá. Anh khập khễnh qua sân trường, mu bàn tay chảy máu.

Anh vào tòa nhà qua cửa lách và thấy một hành lang dài, rẽ vào nhiều lớp học. Mùi mồ hôi, thức ăn thừa, và phấn sực trong không khí. Benny Avni đi qua cánh cửa khép hờ vào một lớp học. Trên bàn giáo viên là cục lau bảng đầy bụi và một trang giấy viết vội xé từ một cuốn sổ. Anh cầm nó lên và xem chữ viết, đúng là nét chữ phụ nữ nhưng không phải của Nava. Benny Avni bỏ tờ giấy giờ lem máu lại lên bàn và nhìn lên bảng. Trong cùng nét chữ phụ nữ ấy là dòng chữ “Đời sống trầm lắng ở làng quê so với đời sống nhộn nhịp ở thành phố—hoàn thành chậm nhất là thứ Tư.” Dưới hướng dẫn ấy là dòng chữ “Đọc kỹ ba chương tiếp theo và chuẩn bị trả lời mọi câu hỏi ở cuối.” Trên tường treo chân dung Theodor Herzl, Chủ tịch nước, Thủ tướng, cùng một số áp phích minh họa, một trong số đó ghi “Những người yêu thiên nhiên bảo tồn và bảo vệ hoa dại.”

Bàn học xô vào nhau, rất có thể là do học sinh đổ ra cửa khi chuông reo. Trên các ô cửa sổ, đám hoa phong lữ bị bỏ bê đang khát. Treo đối diện bàn giáo viên là một tấm bản đồ Israel lớn, với một vòng tròn đậm màu xanh lá quanh làng Tel Ilan, ở chân vùng Menashe. Một chiếc áo khoác mồ côi treo trên mắc.

Benny Avni ra khỏi lớp và tiếp tục, hơi run, đi dọc các hành lang trống, máu nhỏ giọt đánh dấu đường anh đi. Khi đến nhà vệ sinh cuối hành lang, anh cảm thấy cần phải vào phòng phụ nữ. Có năm ngăn. Benny Avni kiểm tra sau mỗi cánh cửa, thậm chí còn điều tra cả tủ đồ lao công. Rồi anh đi theo một hành lang khác, rồi thêm một hành lang nữa, trước khi cuối cùng cũng tìm thấy phòng chờ của giáo viên. Đứng ngoài cửa, anh do dự một lúc, lần tay theo dòng chữ “Phòng giáo viên—sinh viên không phận sự miễn vào,” như thể nó được viết bằng chữ nổi. Anh chợt nghĩ có khi trong đó đang họp, và anh không muốn chen vào, nhưng đồng thời anh vẫn cảm thấy cơn thôi thúc xông vào. Tuy nhiên, phòng chờ vắng tanh và tối, các cửa sổ đóng chặt và rèm buông. Hai dãy kệ sách đứng hai bên căn phòng. Chính giữa là một chiếc bàn dài, giữa khoảng hai mươi chiếc ghế, và trên bàn là những chiếc cốc trống không hoặc vơi một nửa, vài cuốn sách, sổ lớp, và vài tờ rơi. Cạnh cửa sổ xa nhất anh thấy một chiếc tủ lớn có ngăn kéo riêng cho mỗi giáo viên. Anh thấy ngăn của Nava, kéo nó ra và đặt lên bàn. Bên trong, anh thấy một tập sổ tay, một hộp phấn, vài viên ngậm họng, và một hộp kính mát rỗng. Nghĩ một lúc, Benny cất ngăn kéo về chỗ cũ. Ở cuối bàn, treo trên lưng ghế, là một chiếc khăn quàng trông quen thuộc với anh, giống một chiếc của Nava. Nhưng làm sao anh có thể dám chắc dưới ánh sáng mờ nhạt này? Thế rồi anh vẫn lấy nó thấm máu trên tay, gấp nó lại rồi cất vào túi áo khoác. Anh ra khỏi phòng giáo viên, khập khễnh dọc hành lang nhiều cửa, nhòm vào mỗi lớp học mà anh đi qua. Anh thử mở cửa trung tâm y tế của trường, liếc vào phòng lao công, rồi cuối cùng ra khỏi tòa nhà qua một cánh cửa khác cánh cửa mà anh đi vào. Anh đi cà nhắc qua sân trường, trèo lên hàng rào, kéo dây kẽm gai lại, rồi nhảy xuống, lần này với cái giá là một vết cắt sắc lẹm lên tay áo khoác.

Anh đứng một lúc dưới chân hàng rào, chờ mà không nhận ra mình đang chờ gì, đến khi thấy con chó ngồi bên kia phố cách khoảng mười mét, nhìn anh hết sức nghiêm túc. Anh nghĩ đến việc vỗ về nó. Nhưng nó đứng dậy, duỗi người, và bước chậm về phía trước, vẫn giữ khoảng cách.

***

Trong mười lăm phút, Benny Avni khập khễnh theo con chó trên các con phố vắng, băng bàn tay chảy máu bằng chiếc khăn kẻ ô vuông có thể của Nava cũng có thể không. Bầu trời xám thấp đan vào những ngọn cây trong lúc những vệt sương mù âm u đậu trên các sân bãi. Có lẽ vài giọt mưa đã chạm mặt anh, nhưng anh không chắc và, nói thật, không quan tâm. Anh nghĩ mình thấy một con chim trên một bức tường, nhưng đến gần hơn anh nhận ra đấy chỉ là một hộp sắt tây rỗng.

Chẳng bao lâu anh đã đến một lối đi hẹp giữa hai giậu hoa giấy cao. Anh mới cho phép lát lại nó, và mấy buổi sáng trước còn đích thân đến kiểm tra. Từ lối đi này, anh lại ra phố Hội đường. Con chó đi trước như đang dẫn đường cho anh. Ánh sáng thậm chí còn xám hơn trước. Anh tự hỏi, Đi thẳng về nhà có tốt hơn không nhỉ? Suy cho cùng, có thể cô đã về và có lẽ đang nghỉ ngơi, khó hiểu trước sự vắng mặt của anh, có khi còn lo cho anh. Nhưng ý nghĩ về căn nhà trống làm anh sợ, và anh tiếp tục đi, khập khễnh, theo sau con chó, nó không bao giờ ngoảnh lại, mõm hạ thấp như đang đánh hơi đường. Chẳng mấy nữa—có thể trước khi trời tối—một trận mưa lớn sẽ rửa sạch những cái cây và mái nhà và vỉa hè bụi bặm. Anh nghĩ về những chuyện có thể đã xảy ra nhưng rất có thể sẽ không bao giờ xảy ra. Rồi anh bắt đầu nghĩ vẩn vơ. Nava có thói quen ngồi với các cô gái dưới hiên sau nhà, nhìn ra những cây chanh, trong đó có ba người nói giọng trầm. Họ nói chuyện gì anh chưa bao giờ biết, cũng không thực sự quan tâm để mà biết. Giờ thì anh quan tâm nhưng lại chẳng biết gì. Anh cảm thấy mình phải quyết định, nhưng dù đã quen với việc đưa ra nhiều quyết định mỗi ngày ở nơi làm việc, đột nhiên anh lại đầy nghi ngờ, và không biết điều gì đang mong đợi anh ở thế giới này. Trong lúc đó, con chó đã dừng lại và ngồi trên vỉa hè cách đó mười mét, và Benny làm theo nó, ngồi xuống chiếc ghế trong Công viên Tưởng niệm nơi có vẻ Nava đã ngồi hai hay ba tiếng trước. Anh nhích vào giữa ghế, bàn tay chảy máu bọc trong khăn, áo khoác cài cúc trước cơn mưa nhẹ đã bắt đầu rơi, và anh ngồi đó, đợi vợ mình.

Copyright © 2008 by Amos Oz | Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Advertisement

One comment on “Truyện ngắn: “Chờ đợi” – Amos Oz

  1. Bà Tám
    March 5, 2017

    Chuyện đời oái oăm nhỉ? Khi người ta dặn là “đừng lo cho em” thì khổ chủ cứ băn khoăn tìm kiếm. Chuyện này có thể gom vào thành một câu thơ của ai đó, “nhưng sao đi mà không bảo gì nhau.”

    Tôi cứ tưởng ông Amos chỉ viết truyện chính trị.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

Information

This entry was posted on March 3, 2017 by in Truyện and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

%d bloggers like this: