Anita Schiffer-Fuchs/Süddeutsche Zeitung Photo
Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông là giáo sư ngành ngôn ngữ và văn học Slavơ tại Đại học California, Berkeley từ năm 1961 đến năm 1998 và được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Tôi nhìn gương mặt ấy, chết lặng. Những ngọn đèn của các nhà ga métro lướt qua, tôi không hề để ý. Biết làm gì khi cái nhìn của chúng ta thiếu sức mạnh tuyệt đối để nuốt lấy các đối tượng một cách mê say, trong một phút giây, chẳng để lại gì ngoài sự trống rỗng của một dáng hình lý tưởng, một ký hiệu như một chữ tượng hình được đơn giản hóa từ hình vẽ một con vật nào hay một con chim? Cái mũi hơi hếch, một bờ trán cao với mái tóc chải mượt ra sau, đường cằm—nhưng sao sức mạnh của cái nhìn không phải là tuyệt đối?—và giữa sắc trắng tô hồng là hai hốc sâu chứa dung nham đen nhánh. Để mê mẩn theo gương mặt ấy mà đồng thời nó vẫn nổi trên nền của tất cả những cành cây xuân, những bức tường, những ngọn sóng, trong tiếng khóc của nó, tiếng cười của nó, đưa nó về mười lăm năm trước, hay ba mươi năm sau. Để có nó. Đó thậm chí không phải là một ham muốn. Nó giống như một con bướm, một con cá, một thân cây, chỉ bí ẩn hơn. Và tôi nhận ra sau bao lần mình cố công gọi tên trần gian, tôi chỉ lặp lại được lời tuyên xưng cao nhất, duy nhất mà không sức mạnh nào có thể đạt tới xa hơn: tôi hiện hữu, nàng hiện hữu. Hét lên đi, thổi kèn đồng, hãy tổ chức ngàn cuộc tuần hành, chỉ lặp đi lặp lại: hiện hữu!
Đến Raspail nàng xuống. Còn lại tôi giữa mênh mông vạn hữu. Miếng bọt biển, đau khổ vì tự mình đâu thể đẫm nước; một dòng sông, đau khổ vì bóng vân mộc đâu phải là mộc vân.
Brie-Comte-Robert, 1954
Czesław Miłosz, “Esse,” trans. author and Robert Pinsky in Miłosz, The Collected Poems 1931-1987 (Ecco, 1988).
Copyright © 1988 by Czesław Miłosz | Nguyễn Huy Hoàng dịch.