Photo by Egisto Sani/Flickr
Rainer Maria Rilke là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất viết bằng tiếng Đức của thế kỷ 20. Ông sinh năm 1875 ở Praha và xuất bản tập thơ đầu, Leben und Lieder, năm 1894. Phần lớn cuộc đời ông sống chu du ở các nước châu Âu, với Paris là nơi hoạt động chính trước khi ông phải ở lại Munich khi Thế chiến I nổ ra. Năm 1919 ông đến Thụy Sĩ, hoàn thành hai tác phẩm cuối, Die Sonette an Orpheus (1922) và Duineser Elegien (1923), trước khi qua đời vì bệnh máu trắng năm 1926.
Chúng ta không thể biết cái đầu thiêng của người,
với đôi mắt chín rực như trái táo. Thế nhưng
thân mình người vẫn sáng như thắp nến bên trong,
ánh mắt người chiếu ra, vẫn âm ỉ ngời ngời
dẫu ngọn lửa đã lụi. Nếu không phải như vậy
tấm ngực vồng không thể làm cho mi ngây ngất,
một nụ cười không thể, qua tấm hông khẽ vặn,
đến được với nơi trung tâm của sự sinh sản.
Nếu không phiến đá này đã đứng vô hình hài,
vô hồn dưới đôi vai buông thõng xuống thinh không,
không lấp lánh như da của con thú săn mồi,
và đã không, từ tất cả các cạnh, cháy bùng
như một vì sao: bởi chẳng có nơi nào
là không nhìn vào mi. Mi phải thay đổi đời mình.
Rainer Maria Rilke, “Archaïscher Torso Apollos,” Der neuen Gedichte anderer Teil (Insel-Verlag, 1908).
This poem is in the public domain | Nguyễn Huy Hoàng dịch từ các bản tiếng Anh của Edward Snow, Stephen Mitchell, Don Paterson, và Robert Bly.