Nguyễn Huy Hoàng

the star is fading

Truyện ngắn: “Cô Algrave” – Clarice Lispector

Clarice Lispector (1920–1977) là một tiểu thuyết gia người Brazil và nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng thế giới của nền văn chương tiếng Bồ Đào Nha. Nhận xét về một trong những thiên tài ẩn giấu của thế kỷ 20 này, Colm Tóibín so sánh Lispector với Jorge Luis Borges trong những tác phẩm hư cấu của ông, rằng bà có “một khả năng viết như thể chưa ai viết bao giờ, như thể sự độc đáo và tươi mới của tác phẩm xuất hiện trong thế giới một cách hết sức bất ngờ.”

Bà là tác giả của chín cuốn tiểu thuyết, trong đó có A hora da estrela (Giờ của ngôi sao ấy, 1977), gần mười tập truyện ngắn, trong đó có A via crucis do corpo (Đàng Thánh giá của thân xác, 1974), bao gồm truyện ngắn dưới đây, và một số tác phẩm khác cho thiếu nhi.

Cô Algrave

Cô ấy sợ bị đánh giá. Chính vì thế mà cô không kể cho ai chuyện gì. Có kể người ta cũng không tin vì họ có tin vào thực tế đâu. Nhưng cô, sống ở Luân Đôn, nơi có những bóng ma trong những con hẻm tối, thì biết sự thật.

Thứ Sáu của cô cũng như tất cả các ngày còn lại. Chuyện đến tối thứ Bảy mới xảy ra. Nhưng hôm thứ Sáu thì cô vẫn làm mọi thứ như thường lệ. Mặc dù một ký ức khủng khiếp đã giày vò cô: hồi còn nhỏ, đâu bảy tuổi, cô thường chơi đồ hàng với anh họ, Jack, trên chiếc giường rộng rãi của bà nội. Và hai đứa đã thử làm mọi cách để có em bé, nhưng không thành công. Cô chưa bao giờ gặp lại Jack mà cũng không muốn gặp. Nếu cô có tội, thì cậu ta cũng thế.

Độc thân, tất nhiên cô còn trong trắng. Cô sống một mình trong một căn hộ trên tầng cao nhất ở Soho. Ngày hôm đó cô đi mua đồ tạp hóa: rau củ. Bởi vì cô nghĩ ăn thịt là một tội lỗi.

Khi đi qua giao lộ Piccadilly và thấy những cô gái đứng đợi đàn ông ở các góc phố, cô thực sự buồn nôn. Vì tiền! Thật không thể chịu nổi. Bức tượng thần Eros đằng kia cũng chẳng đứng đắn.

Sau bữa trưa cô đi làm: cô là một nhân viên đánh máy hoàn hảo. Sếp cô không bao giờ nhìn cô và may thay, đối xử với cô với sự tôn trọng, gọi cô là cô Algrave. Tên thân mật của cô là Ruth. Cô là người gốc Ái Nhĩ Lan. Tóc cô đỏ, búi ngay ngắn sau gáy. Cô có nhiều tàn nhang, da trắng và mịn đến mức trông như thể lụa trắng. Lông mi cô cũng đỏ. Cô là một phụ nữ xinh đẹp.

Cô tự hào về vóc dáng của mình: mẩy và cao. Nhưng chưa có ai sờ được vào ngực cô bao giờ.

Cô thường ăn tối tại một nhà hàng giá rẻ ở ngay Soho. Cô hay gọi mì ống với xốt cà chua. Và cô chưa bao giờ đặt chân vào một quán rượu nào: mùi rượu làm cô buồn nôn mỗi khi đi qua. Cô cảm thấy bị xúc phạm bởi loài người.

Cô trồng phong lữ đỏ nở rực vào mùa xuân. Cha cô vốn là cha xứ Tin lành còn mẹ cô vẫn sống ở Dublin với đứa con trai đã có vợ. Anh trai cô cưới một mụ chó cái thực sự tên là Tootzi.

Thỉnh thoảng cô Algrave lại viết một lá thư phản đối đến tờ Thời báo Luân Đôn. Và họ sẽ cho đăng nó. Cô thực sự vui khi thấy tên mình: Thân ái, Ruth Algrave.

Cô chỉ tắm một tuần một lần, vào thứ Bảy. Để không phải nhìn thấy cơ thể trần truồng của mình, cô thậm chí còn không cởi quần lót hay áo ngực.

Hôm chuyện ấy diễn ra là thứ Bảy nên cô không phải đi làm. Cô dậy rất sớm rồi làm một cốc trà nhài. Sau đó cô cầu nguyện. Rồi cô đi ra ngoài lấy chút không khí trong lành.

Gần khách sạn Savoy cô suýt thì bị xe cán. Nếu xe tông trúng cô và làm cô chết thì thật tồi tệ vì sẽ không có chuyện gì xảy ra với cô vào tối hôm đó.

Cô đi tập hát cho dàn hợp xướng nhà thờ. Cô có giọng ấn tượng. Phải, cô là một người được ưu ái.

Sau đó cô đi ăn trưa và cho phép mình ăn tôm: nó ngon đến nỗi nó thậm chí như một tội lỗi.

Rồi cô đến Công viên Hyde và ngồi xuống bãi cỏ. Cô mang theo một quyển Kinh Thánh để đọc. Nhưng Chúa tha thứ cho cô, mặt trời rất dữ dội, rất chói, rất nóng đến nỗi cô chẳng đọc được gì mà chỉ ngồi trên mặt đất, không đủ can đảm để mà nằm xuống. Cô cố hết sức để không nhìn những cặp đôi đang hôn hít và mơn trớn nhau không chút xấu hổ.

Sau đó cô về nhà, tưới bụi thu hải đường và tắm. Rồi cô đến thăm bà Cabot đã 97 tuổi. Cô mang cho bà một lát bánh nho và họ uống trà. Cô Algrave cảm thấy thật hạnh phúc, dẫu cho… Chà, dẫu cho.

Đến bảy giờ cô về nhà. Chẳng có gì để làm. Bởi vậy mà cô đan một chiếc áo len mùa đông. Áo mang một màu sắc tráng lệ: vàng như mặt trời.

Trước khi đi ngủ, cô uống thêm một chút trà nhài với bánh quy, đánh răng, thay quần áo rồi lên giường. Tự tay cô đã may những tấm rèm cửa mỏng manh và treo chúng lên.

Đó là tháng Năm. Những tấm rèm cuộn lên trong gió vào cái đêm độc nhất ấy. Vì sao lại độc nhất? Cô không biết.

Cô đọc tờ báo buổi sáng một lúc rồi tắt đèn ngủ. Qua cửa sổ mở, cô có thể thấy ánh trăng. Có một mặt trăng tròn.

Cô thở dài vì sống một mình thật khó khăn. Nỗi cô đơn đang đè bẹp cô. Không có ai để nói chuyện thật thảm. Cô là sinh vật cô đơn nhất mà cô biết. Đến bà Cabot còn có một con mèo. Ruth Algrave không có con vật nuôi nào: chúng quá hoang đối với cô. Cô cũng không có TV. Vì hai lý do: cô không đủ tiền mua và cô cũng không muốn ngồi đó xem tất cả những sự vô luân ngoài kia lóe lên trên màn hình. Trên TV nhà bà Cabot cô đã thấy cảnh một người đàn ông hôn môi một người phụ nữ. Đấy là còn chưa kể nguy cơ lây lan vi trùng. Ôi, nếu có thể thì ngày nào cô cũng viết thư phản đối lên tờ Thời báo. Nhưng dường như phản đối cũng có ích gì đâu. Sự vô liêm sỉ đã ở trong không khí. Có lần cô còn thấy hai con chó tơ nhau. Nó làm cô choáng váng. Nhưng nếu Thượng đế muốn mọi thứ vận hành như thế, thì hãy cứ là như thế. Nhưng đừng hòng ai chạm vào cô, cô nghĩ. Cô tiếp tục chống chọi với nỗi cô đơn của mình.

Đến trẻ con cũng thật hư đốn. Cô tránh bọn chúng. Và cô vô cùng hối hận vì đã được sinh ra từ sự thiếu kiềm chế của cha mẹ mình. Cô xấu hổ vì sự không biết xấu hổ của họ.

Từ lúc cô bỏ gạo sống lên bậu cửa sổ, lũ chim bồ câu đã đến thăm cô. Thỉnh thoảng chúng vào phòng ngủ của cô. Chúng được Chúa phái đến. Rất ngây thơ. Kêu gù gù. Nhưng tiếng gù của chúng cũng có phần vô đạo đức, dẫu không bằng nhìn thấy một người phụ nữ bán khỏa thân trên TV. Ngày mai chắc chắn cô sẽ viết một lá thư phản đối những lề lối hư hỏng của thành phố Luân Đôn đáng nguyền rủa này. Cô còn thấy những người nghiện xếp hàng bên ngoài một hiệu thuốc, chờ đến lượt được chích. Làm sao Nữ hoàng có thể để chuyện đó diễn ra? Một bí ẩn. Cô sẽ viết một lá thư khác lên án chính Nữ hoàng. Cô viết tốt, không mắc lỗi ngữ pháp và gõ các lá thư bằng cái máy đánh chữ văn phòng bất cứ khi nào có thời gian nghỉ. Ông Clairson, sếp cô, đã dành nhiều lời khen ngợi cho các lá thư được đăng báo của cô. Ông thậm chí còn nói một ngày nào đó cô có thể trở thành một nhà văn. Cô thấy tự hào và cảm ơn ông không ngớt.

Cô vẫn đang nằm trên giường với nỗi cô đơn của mình. Cái “dẫu cho.”

Đó là lúc chuyện đó xảy ra.

Cô cảm nhận được cái gì đó lọt qua cửa sổ mà không phải là chim bồ câu. Cô sợ. Cô hỏi to:

“Ai đấy?”

Rồi một câu trả lời đến dưới dạng cơn gió.

“Tôi là tôi.”

“Anh là ai?” cô run rẩy hỏi.

“Tôi đến từ Sao Thổ để yêu thương cô.”

“Nhưng tôi không thấy ai cả!” cô khóc.

“Quan trọng là cô cảm thấy tôi là được.”

Và đúng là cô đã cảm nhận được anh ta. Cô cảm thấy một luồng điện.

“Anh tên gì?” cô hỏi, đầy sợ hãi.

“Chuyện đó không quan trọng.”

“Nhưng tôi muốn gọi tên anh!”

“Hãy gọi tôi là Ixtlan.”

Họ hiểu nhau qua tiếng Phạn. Da anh ta có cảm giác lạnh như một con thằn lằn, làm cô rùng mình. Trên đầu Ixtlan đội một cái vương miện bằng những con rắn luồn qua nhau, bị thuần hóa bằng nỗi sợ cái chết có thể đến. Tấm áo choàng che phủ cơ thể anh ta mang sắc thái đau đớn nhất của màu hoa violet, nó là màu vàng ố và màu tím đông tụ lại.

Anh ta nói: “Cởi áo ra.”

Cô cởi áo ngủ ra. Mặt trăng hiện khổng lồ trong phòng ngủ. Ixtlan trắng và nhỏ. Anh ta nằm xuống bên cô trên chiếc giường sắt. Và đưa tay lên ngực cô. Những bông hoa hồng đen.

Cô chưa bao giờ có cảm giác như những gì cô đang có. Nó quá tuyệt vời. Cô sợ nó sẽ kết thúc. Cứ như thể một người què quặt đang quăng cây gậy của mình lên không trung.

Cô bắt đầu thở dài và nói với Ixtlan:

“Em yêu anh, tình yêu của em! Tình yêu lớn của em!”

Và—phải, đúng vậy. Nó đã xảy ra. Cô không muốn nó kết thúc. Thật tuyệt vời, Chúa ơi. Cô muốn nữa, muốn nữa, muốn nữa.

Cô nghĩ: hãy đón nhận em! Hay đúng hơn: “Em dâng mình cho người!” Đó là cõi của “ngay đây và ngay bây giờ.”

Cô hỏi anh ta: “Khi nào anh mới quay lại?”

Ixtlan trả lời:

“Đêm trăng rằm tháng sau.”

“Nhưng làm sao em đợi được lâu thế!”

“Nó là như thế,” anh ta nói, thậm chí ra vẻ lạnh lùng.

“Em sẽ có thai chứ?”

“Không.”

“Nhưng em sẽ chết vì nhớ anh! Làm sao em chịu được?”

“Hãy tự tìm cách.”

Anh ta đứng dậy, hôn hững hờ lên trán cô. Rồi biến mất qua cửa sổ.

Cô bắt đầu khóc rưng rức. Trông cô như một cây vĩ cầm buồn bã mà không có cây vĩ. Bằng chứng nó thực sự xảy ra là tấm ga dính máu. Cô cất nó đi, không giặt và có thể chỉ cho bất cứ ai không tin.

Cô ngắm bình minh đến trong một chùm rạng đông hồng. Trong sương mù, những con chim nhỏ đầu tiên bắt đầu cất tiếng hót líu lo ngọt ngào, chưa đến mức ríu rít.

Chúa đang soi sáng cơ thể cô.

Phải, như một nữ tước luyến tiếc nằm bên dưới tán cây sa tanh phía trên giường, cô vờ rung chuông để gọi người quản gia mang đến một ly cà phê nóng và mạnh, thật mạnh.

Cô yêu anh ta và sẽ háo hức đợi đến đêm trăng rằm tháng sau. Cô không muốn tắm để không phải rửa trôi mùi vị của Ixtlan. Ở bên anh ta, đó không phải là một tội lỗi mà là một niềm vui sướng. Cô không còn muốn viết những lá thư phản đối: cô không còn phản đối nữa.

Và cô không đến nhà thờ. Cô là một người phụ nữ mãn nguyện. Cô đã có chồng.

Rồi Chủ nhật, đến bữa trưa, cô gọi thịt bò thăn với khoai tây nghiền. Thịt tươi thật ngon. Và cô uống thêm vang đỏ Ý. Cô đã được ưu ái thực sự. Cô đã được chọn bởi một người đến từ Sao Thổ.

Cô sẽ hỏi tại sao anh ta lại chọn cô. Anh ta sẽ nói đó là vì cô là một cô gái tóc đỏ và còn trinh trắng. Cô cảm thấy rạo rực. Các con thú không còn làm cô thấy buồn nôn. Hãy để chúng yêu nhau, đó là điều tốt đẹp nhất trên thế giới. Và cô sẽ chờ Ixtlan. Anh ta sẽ quay lại: Tôi biết mà, tôi biết, tôi biết, cô nghĩ. Và cô không còn thấy ghê tởm với các cặp đôi trong Công viên Hyde. Cô biết họ thấy thế nào. Sống tuyệt thế nào. Ăn thịt tươi mới ngon làm sao. Thật sung sướng khi được uống một thứ rượu Ý thực sự se, hơi đắng trên lưỡi và làm nó co rút lại.

Bây giờ cô không còn hợp với những người dưới 18 tuổi. Và cô thích thú với chuyện đó, cô chảy nước dãi vì sung sướng.

Vì là Chủ nhật nên cô đi tập hát cho dàn hợp xướng. Cô hát hay hơn bao giờ hết và không bất ngờ khi được chọn làm người hát xướng. Cô hát bài ca ngợi Đức Chúa. Như thế: Hallelujah! Hallelujah! Hallelujah!

Sau đó cô đến Công viên Hyde và nằm xuống bãi cỏ ấm áp, khẽ dạng chân ra cho nắng ghé vào. Làm một người phụ nữ là một điều tốt. Chỉ phụ nữ mới có thể biết. Nhưng cô nghĩ: nếu phải trả một cái giá quá đắt cho hạnh phúc của mình thì sao? Nó không làm cô thấy phiền. Cô đã trả bất cứ gì cô phải trả. Cô đã trả và đã luôn luôn bất hạnh. Và bây giờ sự bất hạnh của cô đã qua. Ixtlan! Hãy sớm quay lại! Em không đợi được nữa! Đến đây! Đến đây! Đến đây!

Cô nghĩ: Nếu anh ấy thích mình vì mắt mình hơi lác thì sao? Đêm trăng rằm tháng sau cô sẽ hỏi. Nếu đấy là lý do thì không nghi ngờ gì nữa: cô sẽ tập cho mắt lác hoàn toàn. Ixtlan, anh muốn em làm gì em cũng sẽ làm. Chỉ là, cô khao khát chết đi được. Quay lại đi, tình yêu của em.

Phải. Nhưng cô đã làm một chuyện có thể coi là gian dối. Ixtlan sẽ hiểu và tha thứ cho cô. Rốt cuộc, bạn cũng phải chăm lo chuyện đó, đúng không?

Chuyện đó là thế này: không chịu được nữa, cô đến giao lộ Piccadilly và rụt rè bước tới chỗ một gã đàn ông tóc rậm. Cô đưa gã về phòng. Cô bảo gã không phải trả tiền cho cô. Nhưng gã cứ nhất mực để lại tờ tiền cả một bảng trên cái bàn bên cạnh giường ngủ! Mặc dù đúng là cô cần tiền thật. Nhưng cô tức giận là khi gã không tin câu chuyện của cô. Cô cho gã thấy, gần như vẫy nó trước mũi gã, cái tấm ga trải giường dính máu. Gã cười sằng sặc.

Đến sáng thứ Hai cô đã quyết định: cô không làm nhân viên đánh máy nữa, cô có những tài năng khác. Kệ xác ông Clairson. Cô sẽ lang thang trên phố và đưa đàn ông về phòng. Vì cô rất giỏi trên giường nên họ sẽ trả cho cô rất nhiều tiền. Cô có thể uống rượu vang Ý mỗi ngày. Cô cảm thấy muốn mua một chiếc váy màu đỏ tươi với số tiền mà gã râu tóc rậm rạp đã để lại cho cô. Cô thả mái tóc dày mang sắc đỏ đẹp nhất của mình. Trông cô như một tiếng hú.

Cô đã biết mình rất có giá trị. Nếu ông Clairson, gã giả ngây giả ngô đó, muốn cô làm việc cho ông ta thì đó sẽ phải là trong một năng lực khác.

Trước hết cô sẽ mua chiếc váy đỏ cắt ngắn đó, rồi cô sẽ đến văn phòng, cố tình, lần đầu tiên trong đời, đến rất muộn. Và đây, cô sẽ nói với sếp của mình:

“Tôi chán đánh chữ rồi! Đừng có giả ngu với tôi nữa! Muốn biết gì không? Lên giường với tôi đi, đồ khốn! Còn một chuyện nữa, hằng tháng phải trả lương thật cao cho tôi, đồ rẻ mạt!”

Cô chắc chắn ông ta sẽ đổ. Ông ta kết hôn với một người đàn bà xanh xao và tầm thường, Joan, và có một cô con gái thiếu máu, Lucy. Ông ta sẽ biết tay tôi, tên khốn đó.

Và đến đêm trăng rằm, cô sẽ đi tắm để thanh tẩy bản thân mình khỏi tất cả những người đàn ông kia, để sẵn sàng cho bữa tiệc với Ixtlan.

Clarice Lispector, “Miss Algrave,” The Complete Stories, trans. Katrina Dodson, ed. Benjamin Moster (New Directions, 2015).

Copyright © 1974 by Clarice Lispector | Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Advertisement

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

Information

This entry was posted on November 27, 2020 by in Truyện and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

%d bloggers like this: