Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
1
Khi đi qua một thành phố đông đúc
(như Walt Whitman nói, trong bản dịch tiếng Ba Lan),
khi đi qua một thành phố đông đúc
chẳng hạn như gần bến cảng San Francisco, đếm mòng biển
tôi nghĩ có điều gì đó giữa đàn ông, phụ nữ và trẻ em,
không phải hạnh phúc cũng không phải bất hạnh.
2
Buổi trưa, điêu tàn trắng xóa của các nghĩa địa trên sườn đồi:
một thành phố của những xi măng lóa mắt
gắn lại bằng nước dãi của các loài côn trùng có cánh
xoay tròn với bầu trời quanh các xa lộ xoắn ốc.
3
Nếu phải nói thế giới là gì đối với tôi
tôi sẽ bắt một con chuột hang hoặc nhím hoặc chuột chũi
và đặt nó xuống ghế rạp hát vào buổi tối
và, áp tai tôi vào mõm ướt của nó,
lắng nghe nó nói gì về những ánh đèn sân khấu,
những âm thanh của âm nhạc, và các động tác múa.
4
Tôi đã phá vỡ rào cản âm thanh?
Sau đó, những đám mây với những thánh đường,
những tán cây xanh ngây ngất sau những cánh cổng sắt rèn
và sự im lặng, đáng ngạc nhiên, khác những gì tôi biết.
Tôi ở đây nơi nắm tay của một bà cụ được quấn tràng hạt,
cây gậy gõ lên phiến đá giữa những cái bóng đốm.
Có xấu hổ hay không
khi đây là phần của tôi?
5
Thức dậy trước bình minh, tôi thấy hồ nước xám
và, như mọi ngày, hai người trên chiếc thuyền máy, từ từ đi ra.
Sau đó, tôi bị mặt trời chiếu thẳng vào mắt đánh thức
khi nó đứng trên sườn đèo phía Nevada.
Từ lúc này đến lúc khác tôi đã sống qua nhiều điều trong giấc ngủ
rõ đến mức tôi có thể cảm nhận được thời gian tan biến
và biết rằng cái đã qua vẫn hiện hữu, không đi.
Tôi hy vọng nó sẽ được tính một cách nào đó để biện hộ cho tôi:
sự hối tiếc và nỗi khao khát lớn được bày tỏ một đời,
không phải cho vinh quang của tôi, cho một huy hoàng khác.
Rồi một cơn gió nhẹ làm gợn sóng mặt nước óng ánh.
Tôi đã quên. Tuyết lấp lánh trên những ngọn núi.
6
Và cái từ phát lộ ra trong bóng tối là: quả lê.
Tôi lượn lờ quanh nó, nhảy hoặc thử dùng đôi cánh.
Nhưng cứ khi tôi chuẩn bị uống vị ngọt của nó, nó biến mất.
Nên tôi thử lê Anjou – rồi một góc vườn,
sơn trắng bong tróc của những cánh cửa chớp bằng gỗ,
một bụi giác mộc và tiếng xào xạc của những người đã khuất.
Nên tôi thử lê Comice – rồi ngay lập tức cánh đồng
sau hàng rào này (không phải hàng rào khác), con suối, miền quê.
Nên tôi thử lê Jargonelle, lê Bose, lê Bergamot.
Vô ích. Giữa tôi và quả lê, những cỗ xe, những đất nước.
Và vậy là tôi phải sống, với thần chú này trên tôi.
7
Cằm ngẩng cao, các cô gái trở về từ sân quần vợt.
Cầu vồng nước phun trên những bãi cỏ dốc.
Một con chim hoét chạy giật lên, rồi đứng bất động.
Những cây sồi hoàn thiện bóng của lá tháng Năm.
Chỉ điều này là đáng ca ngợi. Chỉ điều này: ngày.
Nhưng dưới nó, các sức mạnh căn bản đang nhào lộn;
và lũ quỷ, chế giễu những người ngây thơ tin vào chúng,
chơi trò đuổi bắt với những tảng thịt đẫm máu,
huýt những khúc ca về vật chất không kết thúc hay khởi đầu,
và về khoảnh khắc cái chết của chúng ta
khi mọi thứ mà chúng ta yêu quý lộ ra
là một mánh khóe của lòng tự yêu xảo quyệt.
8
Và sẽ ra sao nếu Pascal không được cứu
và đôi bàn tay hẹp mà chúng ta đặt cây thập tự vào
là tất cả những gì ông là, toàn bộ, như một con én vô hồn
trong bụi, dưới tiếng vo ve của đám ruồi xanh độc?
Và nếu tất cả họ, quỳ với bàn tay chắp,
hàng triệu, hàng tỉ người, kết thúc với ảo tưởng của họ?
Tôi sẽ không bao giờ đồng ý. Tôi sẽ trao vương miện cho họ.
Trí óc con người lộng lẫy; cái miệng hùng hồn,
và những lời gọi lớn đến nỗi nó phải mở ra Thiên đường.
9
Họ rất kiên trì, cho họ một vài hòn đá
và rễ ăn được, họ sẽ dựng nên cả thế giới.
10
Trên nấm mồ anh ta họ chơi nhạc Mozart,
Bởi họ chẳng có gì để giữ mình khác biệt
Với bụi vàng, với mây, với những bông cúc héo,
Và dưới một bầu trời quá rộng có quá nhiều im lặng.
Và cũng như tại bữa tiệc trà của một công chúa
Khi cây thạch nhũ sáp chảy ra vạch đo
Và bấc kêu xì xèo, và những vai khoác áo khoác dạ
Lấp lánh trong những hàng cổ áo cao kết vàng,
Mozart vang lên, gỡ khỏi bộ tóc giả rắc phấn,
Lơ lửng trên những con đường của mạng tơ cuối hè,
Tan biến trên đầu, trên khoảng không ấy, chỗ
Một chiếc phản lực đã đi, để lại một vệt trắng mỏng.
Trong khi anh ta, cùng thời với không ai,
Đen như một con sâu dưới lớp vỏ mùa đông,
Đã bắt tay vào việc, gọi rỉ sét và mốc đến
Để biến mất, trước khi họ dỡ các vòng hoa phai.
11
Paulina, phòng sau khu người hầu, một cửa sổ nhìn ra vườn cây quả
nơi tôi hái những quả táo ngon nhất gần chuồng lợn,
lấy ngón chân cái dấn xuống lớp bùn ấm của đống phân,
cửa sổ kia nhìn ra giếng (tôi thích thả xô xuống
và làm cho những cư dân của nó sợ hãi, những con ếch xanh).
Paulina, một cây phong lữ, cái lạnh của sàn đất,
một chiếc giường cứng với ba chiếc gối,
một cây thánh giá bằng sắt và hình ảnh của các vị thánh,
được trang trí bằng cọ và những bông hồng giấy.
Paulina đã chết từ lâu, nhưng còn hiện hữu.
Và, tôi tin chắc vì điều gì đó, không chỉ trong ý thức của tôi.
Trên khuôn mặt nông dân Litva thô kệch của cô
lơ lửng một trục quay những con chim ruồi, và đôi chân bẹt, chai lì
được nước sapphire tưới lên, dưới đó những con cá heo
ưỡn những tấm lưng lên
đùa giỡn.
12
Bất kể anh ở đâu, những sắc trời bao lấy anh
như ở đây, những quả cam sắc và những bông violet,
mùi một chiếc lá xoa giữa những ngón tay của anh đi cùng anh,
ngay cả trong mơ, những loài chim được đặt tên
trong thứ tiếng của nơi ấy: một con towhee đến bếp,
vãi một chút bánh mì lên bãi cỏ, những con junco đã đến.
Bất kể anh ở đâu, anh chạm vào vỏ cây
kiểm tra độ nhám khác nhau nhưng quen thuộc.
Biết ơn một mặt trời mọc và một mặt trời lặn
bất kể anh ở đâu, anh không thể là kẻ lạ.
Cha Junipero có phải là kẻ lạ, khi trên một con la
ông đến đây, lang thang qua các sa mạc phương Nam?
Ông tìm thấy các anh em da đỏ. Lý trí và ký ức
của họ mờ mị. Họ đã đi rất xa
từ sông Euphrates, từ dãy Pamir, từ các cao nguyên Cathay,
dần dần, như mỗi thế hệ có thể
theo đuổi mục tiêu của họ: những bãi săn phong phú.
Và ở đó, nơi sau này đất liền chìm vào biển cạn
lạnh giá, họ đã sống hàng nghìn năm,
cho đến khi họ gần như đã quên hết Vườn Eden
và vẫn chưa học được cách tính thời gian.
Cha Junipero, sinh ra trên Địa Trung Hải,
mang đến cho họ tin tức về bậc cha mẹ đầu tiên của họ,
về những dấu hiệu, lời hứa và sự mong đợi.
Ông bảo họ, những kẻ lưu đày, rằng ở quê hương họ,
tội lỗi của họ đã được rửa sạch, như bụi được rửa
sạch khỏi trán họ, vẩy nước.
Nó như một điều mà họ đã nghe nói đến từ lâu.
Nhưng, những kẻ tội nghiệp, họ đã mất đi khiếu tập trung
và nhà thuyết giáo phải treo trên cổ một miếng sườn nai nướng
để thu hút những cặp mắt tham lam của họ.
Nhưng họ rỏ dãi, ồn đến mức ông không thể cất tiếng.
Tuy nhiên, chính họ là những người đã thay tôi sở hữu
những tảng đá mà trên đó chỉ những con rồng câm
đang phơi nắng từ khởi thủy, bò ra khỏi biển.
Họ may áo choàng từ lông gõ kiến, chim ruồi, và chim tanagra,
và một cánh tay nâu, tung áo ra sau, sẽ chỉ đến: đây.
Và từ đó vùng đất đã được chinh phục: đã thấy.
13
Ria mép của những con thỏ và cái cổ lông tơ
của những con vịt vàng khoang đen, ngọn lửa lung linh
của một con cáo trong bụi xanh, chạm đến trái tim
của cả chủ lẫn tớ. Và âm nhạc cũng bắt đầu
dưới những cái cây. Một chiếc trống lẫy, một cây sáo
hay một chiếc concertina, hay từ máy hát
giọng các djinn ợ ra nhạc jazz.
Chiếc xích đu đưa lên mây, và những người từ dưới nhìn lên
bị bóng tối dưới một chiếc váy hớp đi hơi thở.
Ai mà không mơ về lâu đài của Hầu tước de Sade?
Khi một người (“ah-h-h!”) xoa tay
và vào việc: xé rách váy bằng một cái móc
của những cô gái trẻ xếp hàng cho cuộc chạy đua
hoặc ra lệnh cho các nữ tu trần truồng mặc tất lưới
lấy roi đánh chúng tôi khi chúng tôi cắn ga trải giường.
14
Cabeza, nếu có ai biết mọi thứ về nền văn minh, thì đó là ông.
Một quản thư ở Castile, ông việc gì
phải đi lang thang, nơi không có khái niệm nào,
không con số, không nét bút nhúng mực đỏ,
chỉ một con thuyền bị sóng đánh lên cát,
trần truồng bò tứ chi, dưới con mắt người Anh Điêng bất động,
và bỗng nhiên họ rên rỉ trong khoảng không của trời và biển,
lời than của họ: rằng ngay cả các vị thần cũng bất hạnh.
Suốt bảy năm ông là vị thần được báo trước của họ,
để râu, da trắng, bị đánh nếu không làm ra được phép lạ.
Bảy năm diễu hành từ Vịnh Mexico đến California,
tiếng hu-hu-hu của các bộ lạc, bụi gai nóng của lục địa.
Nhưng sau đó? Tôi là ai, ren trên cổ tay áo không phải của tôi,
bàn khắc sư tử không phải của tôi, người hâm mộ
Doña Clara, chiếc dép dưới áo choàng của cô – ôi, không.
Cả tứ chi! Cả tứ chi!
Bôi nhọ đùi bằng sơn màu đánh trận.
Liếm đất. Wha wha, hu hu.
Berkeley, 1961
Czesław Miłosz, “Throughout Our Lands,” trans. author and Peter Dale Scott in Miłosz, Selected Poems (Seabury Press, 1973).
Copyright © 1962 by Czesław Miłosz | Nguyễn Huy Hoàng dịch.