Amos Oz (1939–) là nhà văn người Israel và giáo sư ngành văn học Hebrew tại Đại học Ben-Gurion. Ông được trao giải Goethe năm 2005, giải Heinrich Heine năm 2008, và giải Franz Kafka năm 2013. Truyện ngắn “Two Women” được in trong Oz, Between Friends, trans. Sondra Silverston (Boston and New York: Houghton Mifflin Harcourt, 2013).
Sáng sớm, trước khi mặt trời mọc, tiếng bồ câu gù trong những bụi cây bắt đầu trôi vào ô cửa sổ mở. Thứ âm thanh khàn khàn, đều đặn và vẹn nguyên, xoa dịu cô. Một làn gió nhẹ thổi qua ngọn thông và một con gà trống gáy trên sườn đồi. Một con chó sủa đằng xa và một con chó khác đáp lại. Những âm thanh ấy đánh thức Osnat trước khi chuông báo thức reo, và cô ra khỏi giường, tắt báo thức, tắm, và mặc quần áo lao động. Lúc 5:30, cô đi làm ở tiệm giặt của kibbutz. Trên đường, cô đi ngang qua căn hộ của Boaz và Ariella, trông vẫn khóa và tối. Chắc họ vẫn đang ngủ, cô nghĩ, và ý nghĩ đó không làm dấy lên ghen tị hay đau đớn trong cô, chỉ một nỗi hoài nghi mơ hồ: như thể mọi thứ đã diễn ra không diễn ra với cô mà với người lạ, và không phải hai tháng trước mà là nhiều năm trước. Ở tiệm giặt, cô bật đèn điện vì ánh sáng tự nhiên vẫn còn quá mờ nhạt. Rồi cô cúi xuống đống quần áo đang chờ và bắt đầu tách riêng vải trắng khỏi vải màu và vải bông khỏi vải tổng hợp. Mùi chua của cơ thể bốc lên từ quần áo bẩn, lẫn với mùi thơm của bột giặt. Osnat làm việc ở đây một mình, cô để radio bật cả ngày để giảm bớt nỗi cô đơn, dẫu tiếng ồn của những chiếc máy giặt át cả lời lẫn nhạc. Lúc 7:30 cô hoàn thành lượt đầu tiên, lấy quần áo ra và bỏ thêm vào máy giặt, rồi đến nhà ăn để ăn sáng. Cô luôn bước chậm, như thể cô không chắc mình muốn đi đâu hoặc chẳng bận tâm. Ở đây, trong kibbutz của chúng tôi, Osnat được xem là một phụ nữ rất trầm lặng.
Đầu mùa hè này, Boaz bảo Osnat gã đã đi lại với Ariella Barash được tám tháng và quyết định ba người bọn họ không thể tiếp tục sống trong dối trá. Vậy nên, gã quyết định bỏ Osnat và dọn đồ đến căn hộ của Ariella. “Em không còn trẻ con nữa,” gã nói. “Em biết không, Osnat, những chuyện như thế vẫn diễn ra hằng ngày ở mọi nơi trên thế giới, và ở cả kibbutz chúng ta. May mà mình chưa có con. Nếu có thì đã khó khăn hơn rất nhiều.” Gã mang xe đạp của mình đi, nhưng để chiếc radio lại cho cô. Gã muốn cuộc chia tay được thân tình như cuộc sống với nhau của họ trong bao năm qua. Gã hoàn toàn hiểu nếu cô có giận dữ với gã. Dù cô thực sự chẳng có gì mà giận: “Quan hệ với Ariella không phải là để làm tổn thương em. Những chuyện như thế cứ thế diễn ra thôi, chỉ có thế.” Dù sao gã vẫn rất tiếc. Gã sẽ dọn đồ ngay và để lại cho cô không chỉ chiếc radio mà còn cả mọi thứ khác, bao gồm những album ảnh, những chiếc gối thêu, và bộ pha cà phê vốn là quà cưới của hai người.
“Vâng.”
“Ý em là gì, ‘Vâng’?”
“Đi,” cô nói, “đi đi.”
***
Ariella Barash là một phụ nữ đã ly dị, cao và gầy, cổ thon dài, tóc nhiều tầng, và đôi mắt cười, một trong hai bên hơi lác. Cô làm ở trại gà và cũng là người đứng đầu Ủy ban Văn hóa của kibbutz, chịu trách nhiệm tổ chức những ngày nghỉ, buổi lễ, và những đám cưới. Ngoài ra, cô còn phụ trách việc mời người thuyết giảng các tối thứ Sáu và đặt phim cho những buổi chiếu tối thứ Tư trong nhà ăn. Cô có một con mèo già và một con chó nhỏ, gần như một con chó con, sống yên bình với nhau trong căn hộ. Con chó sợ con mèo và sẽ lịch sự tránh nó. Con mèo già sẽ làm ngơ con chó và đi qua như thể nó vô hình. Hai con vật dành gần như cả ngày mơ màng trong căn hộ của Ariella, con mèo trên sofa và con chó trên thảm, chẳng bận tâm nhau.
Ariella từng có cuộc hôn nhân kéo dài một năm với một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, Ephraim. Gã bỏ cô theo một nữ lính trẻ. Quan hệ của cô với Boaz bắt đầu khi một hôm gã đến căn hộ của cô trong chiếc áo nịt làm việc đẫm mồ hôi dính đầy dầu máy. Cô nhờ gã qua sửa chiếc vòi nước rỉ. Gã đeo thắt lưng da có khóa bằng kim loại. Khi gã cúi xuống vòi nước, cô vuốt nhẹ tấm lưng cháy nắng của gã một vài lần cho đến khi gã quay lại mà không bỏ chiếc tua vít và cờ lê của mình xuống. Kể từ đó gã lẻn vào căn hộ cô khi thì nửa giờ khi thì một giờ, và ở Kibbutz Yekhat này có những người đã nhận thấy sự lén lút ấy và không giữ phát hiện đó cho riêng mình. Trong kibbutz của chúng tôi người ta nói, “Thật là một cặp kỳ lạ; gã gần như không nói một lời còn ả thì không bao giờ ngậm miệng.” Roni Shindlin, diễn viên hài, nói, “Mật đang ăn gấu.” Không ai nói Osnat biết điều đó, nhưng bạn bè đã bao bọc cô bằng tình thương và tìm cách nhắc cô nhớ rằng cô không chỉ có một mình, nếu cô cần gì, điều nhỏ nhặt nhất, vân vân và vân vân.
Rồi Boaz chất quần áo lên giỏ xe đạp và dọn đến căn hộ của Ariella. Buổi chiều gã sẽ trở về từ chỗ làm ở ga ra, cởi quần áo lao động, và vào nhà tắm tắm rửa. Từ ngoài cửa, gã luôn hỏi cô, “Thế hôm nay có chuyện gì?” Và Ariella sẽ trả lời trong ngạc nhiên: “Phải có chuyện gì chứ? Chẳng có chuyện gì cả. Tắm đi rồi mình uống cà phê.”
***
Trong hòm thư của mình, nằm phía ngoài cùng bên trái tủ thư gần cửa nhà ăn, Ariella thấy một lá thư gấp gọn viết bằng nét chữ tròn, thong thả của Osnat:
Lúc nào Boaz cũng quên uống thuốc hạ huyết. Anh ấy cần uống vào sáng và tối trước khi đi ngủ, và sáng phải uống nửa viên cholesterol. Anh ấy không nên rắc tiêu đen hoặc nhiều muối vào salad, và nên ăn phô mai ít béo và không được ăn bít tết. Anh ấy được ăn cá và thịt gà, nhưng không nhiều gia vị. Anh ấy cũng không nên ăn quá nhiều đồ ngọt. Osnat.
T.B. Anh ấy nên bớt uống cà phê đen.
Ariella Barash trả lời Osnat bằng nét chữ sắc cạnh, căng thẳng của mình và đặt vào hòm thư của cô:
Cảm ơn chị đã rất tử tế viết thư cho tôi. Boaz cũng ợ nóng, nhưng anh bảo không có gì. Tôi sẽ cố gắng làm mọi thứ mà chị đề nghị, nhưng anh ấy không dễ tính và chẳng quan tâm gì đến sức khỏe của mình. Anh chẳng quan tâm gì đến rất nhiều chuyện. Chị biết mà. Ariella B.
Osnat viết:
Nếu chị không để anh ấy ăn các loại thực phẩm rán, chua, cay, anh ấy sẽ không bị ợ nóng. Osnat.
Ariella Barash trả lời sau vài ngày:
Tôi thường tự hỏi, chúng tôi đã làm gì? Anh ức chế cảm xúc của mình còn của tôi thì cứ liên tục thay đổi. Anh chịu được con chó của tôi nhưng không thể chịu được con mèo. Buổi chiều khi từ ga ra về nhà, anh hỏi tôi, Thế hôm nay có chuyện gì? Rồi anh tắm, uống chút cà phê đen, rồi ngồi xuống ghế của tôi đọc báo. Khi tôi thử pha trà thay vì cà phê cho anh, anh cáu và làu bàu tôi đừng có làm mẹ của anh nữa. Rồi anh ngủ gật trên ghế, báo rơi xuống sàn, và tỉnh lúc bảy giờ để nghe tin tức trên radio. Anh vỗ về con chó trong lúc nghe đài, lầm bầm một số từ thân mật nghe không rõ. Nhưng nếu con mèo nhảy lên đùi anh đòi âu yếm, anh sẽ nhấc nó ra với vẻ ghê tởm khiến tôi rúm người. Khi tôi bảo anh sửa cái ngăn kéo bị kẹt, anh không chỉ sửa nó mà còn tháo cả hai cánh tủ cọt kẹt ra rồi lắp lại, rồi hỏi anh có nên sửa luôn sàn nhà hay trần nhà không với một nụ cười. Tôi tự hỏi điều gì ở anh đã cuốn hút tôi và thỉnh thoảng vẫn còn cuốn hút, nhưng không có câu trả lời rõ ràng. Ngay cả sau khi tắm móng tay anh vẫn đen kịt dầu máy và đôi bàn tay anh thì thô ráp và trầy xước. Và sau khi cạo anh vẫn còn râu trên cằm. Có thể vì việc liên tục gà gật của anh—ngay cả lúc tỉnh trông anh vẫn có vẻ gà gật—mà tôi luôn muốn thử đánh thức anh. Nhưng tôi chỉ đánh thức anh được một lúc, chị biết như thế nào đấy, và chuyện đó không phải lúc nào cũng diễn ra. Không ngày nào trôi qua mà tôi không nghĩ về chị, Osnat, rồi khinh bỉ bản thân và tự hỏi liệu có sự tha thứ nào cho những gì tôi đã làm với chị hay không. Đôi lúc tôi tự nhủ rằng có thể Osnat không thực sự lo nghĩ nhiều đến thế, có thể chị không yêu anh? Khó mà biết được. Chị có thể nghĩ thật ra tôi chọn làm thế với chị. Nhưng thực sự chúng tôi không có lựa chọn nào. Toàn bộ câu chuyện về sự hấp dẫn giữa một gã đàn ông và một người phụ nữ dường như đột nhiên kỳ lạ và có chút vô lý. Chị có nghĩ thế không? Nếu chị có con, chị với tôi đã phải đau khổ hơn nhiều. Anh thì sao? Thực sự anh cảm thấy gì? Làm sao mà ai biết được? Chị biết rất rõ anh nên và không nên ăn gì. Nhưng chị có biết anh cảm thấy gì không? Hay liệu anh có cảm thấy gì không? Tôi từng hỏi anh có điều gì tiếc nuối không và anh bảo, “Xem xem, tự em có thể thấy anh đang ở đây với em mà không phải với cô ấy.” Tôi muốn chị biết, Osnat, rằng gần như đêm nào sau khi anh ngủ tôi cũng nằm thao thức trên giường và nhìn ánh trăng rọi vào phòng ngủ tối om của chúng tôi qua kẽ hở trên rèm cửa và tự hỏi chuyện gì đã diễn ra nếu tôi là chị. Tôi bị kéo vào sự trầm lặng của chị. Giá mà tôi có thể hấp thụ chút trầm lặng nào. Đôi lúc tôi dậy mặc quần áo và đi ra cửa, nghĩ mình sẽ đến nhà chị giữa đêm và giải thích tất cả, nhưng tôi có thể giải thích gì chứ? Tôi đứng trên hiên nhà trong mười phút, nhìn lên bầu trời đêm trong, tìm chòm Bắc Đẩu, rồi lại cởi quần áo và trở lại nằm thao thức trên giường. Anh đang ngáy một cách yên bình và tôi cảm thấy một cơn khao khát đột ngột muốn đến một nơi hoàn toàn khác. Thậm chí có thể trong căn phòng cùng chị. Nhưng xin hãy hiểu, chuyện này chỉ diễn ra với tôi vào ban đêm khi tôi nằm thao thức không thể ngủ được và không hiểu được chuyện gì đã diễn ra hay tại sao, và tôi có cảm giác gần gũi mãnh liệt như thế với chị. Tôi muốn làm trong tiệm giặt cùng chị chẳng hạn. Chỉ hai người chúng ta. Lúc nào tôi cũng mang hai mẩu thư ngắn của chị trong túi và lôi ra đọc đi đọc lại. Tôi muốn chị biết tôi trân trọng từng từ chị viết như thế nào và, hơn thế nữa, biết tôi ấn tượng ra sao trước những gì chị đã không viết. Ở kibbutz này người ta nói về chúng ta. Họ ngạc nhiên với Boaz; họ nói tôi chỉ bước qua, cúi xuống, và nhấc anh ra khỏi chị và nói anh, Boaz, chẳng quan tâm gì đến chuyện mình sẽ về căn hộ nào khi làm việc xong và mình sẽ ngủ trên chiếc giường nào. Một hôm Roni Shindlin nháy mắt với tôi ở gần văn phòng, cười nhăn răng, và nói, Thế, Mona Lisa, tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi, nhỉ? Tôi không trả lời và xấu hổ bước đi. Sau đó, về nhà, tôi khóc. Thỉnh thoảng ban đêm tôi khóc, khi anh đã ngủ, không phải vì anh cũng không phải chỉ vì anh, mà vì tôi và vì chị. Như thể thứ gì đó tồi tệ và xấu xí đã xảy đến với chúng ta, không thể sửa chữa. Thỉnh thoảng tôi hỏi anh: Gì cơ, Boaz? Và anh trả lời, Không có gì. Tôi bị cuốn vào sự trống rỗng ấy—như thể anh chẳng có gì, như thể anh đến thẳng từ một sa mạc của sự cô đơn. Và rồi—nhưng sao tôi lại nói với chị điều này? Nói cho cùng, nghe nó làm chị đau lòng và tôi không muốn thêm vào nỗi đau của chị. Trái lại; tôi muốn chia sẻ sự cô đơn của chị giống như cách tôi muốn chạm vào anh trong một khoảnh khắc. Giờ là gần một giờ sáng, anh đang ngủ, cuộn tròn trong tư thế của bào thai, con chó dưới chân anh, con mèo nằm đây trên bàn, đôi mắt vàng chuyển động theo cử động của bàn tay tôi trong khi tôi tiếp tục viết và viết dưới ánh sáng của cây đèn cổ ngỗng. Tôi biết nó là vô nghĩa, biết tôi phải ngừng viết, biết chị thậm chí sẽ không đọc lá thư này, giờ đã dài đến bốn trang. Có lẽ chị sẽ xé nó và vứt đi. Có thể chị sẽ nghĩ tôi đã mất trí, và quả thật tôi đã mất trí. Chúng ta gặp nhau và trò chuyện nhé? Không phải về chế độ ăn của Boaz hay thuốc anh cần uống. (Tôi thực sự cố gắng không để anh quên. Tôi cố gắng, nhưng không phải lúc nào cũng thành công. Chị biết tính cứng đầu của anh đấy, có vẻ giống vẻ khinh miệt nhưng giống vẻ hờ hững hơn.) Chúng ta có thể nói về những thứ hoàn toàn khác. Như những mùa trong năm chẳng hạn, hay thậm chí bầu trời đầy sao trong những đêm hè này: Tôi thích sao và những đám tinh vân. Có lẽ chị cũng thích? Tôi sẽ chờ chị viết thư kể tôi nghe những gì chị nghĩ, Osnat. Hai chữ thôi cũng được. Tôi sẽ chờ. Ariella B.
Lá thư này, nằm chờ đợi trong hòm thư của cô, Osnat chọn không trả lời. Cô đọc nó hai lần, gấp lại, rồi bỏ vào ngăn kéo. Cô đang đứng hoàn toàn bất động, nhìn ra cửa sổ. Ba con mèo con ở cạnh hàng rào: một con mải gặm chân mình; một con nằm rạp hoặc có lẽ đang gà gật, nhưng đôi tai vểnh lên nghi ngờ, như thể bắt được một làn âm mỏng; con thứ ba thì đuổi theo đuôi mình, liên tục ngã và lăn nhẹ nhàng trên lưng do nó còn quá nhỏ. Một làn gió nhẹ thổi qua, vừa đủ làm nguội tách trà. Osnat rời khỏi cửa sổ và ngồi xuống sofa, thẳng lưng, hai tay đặt trên đầu gối, mắt nhắm. Sẽ sớm tối thôi và cô sẽ ngồi nghe nhạc nhẹ trên radio và đọc sách. Rồi cô sẽ cởi quần áo, gấp gọn gàng quần áo sau giờ làm việc của mình, bày quần áo lao động ngày mai ra, tắm, lên giường, và ngủ. Giờ đây đêm của cô không còn những giấc mơ, và cô dậy trước khi chuông báo thức reo. Lũ bồ câu đánh thức cô.
Copyright © 2013 by Amos Oz | Bản dịch © 2016 Nguyễn Huy Hoàng.
Oz thật là tuyệt vời trong việc diễn tả suy nghĩ của con người, con người nói chung, đàn bà nói riêng. Cách suy nghĩ của Oz (về tư tưởng của hai người đàn bà có cùng một ông chồng) khác hẳn tư duy của người Việt. Nếu là người Việt viết về trường hợp này, chắc là toàn là những ghen tuông, thù hận. Người đàn bà có đấng ông chồng lại có vẻ lonely, và nghĩ về sự lonely của người đàn bà bị mất đấng ông chồng. Tuyệt vời.
Hai người đàn bà cô đơn, cô đơn cả khi có và không có người đàn ông bên cạnh. Mình đồng ý với chị Tám là nhà văn rất hiểu và giỏi diễn tả cảm xúc của phụ nữ.