Nguyễn Huy Hoàng

the star is fading

“Văn hóa và trật tự quốc tế mới” – Mario Vargas Llosa

Vargas Llosa.jpg

Mario Vargas Llosa (1936–) là nhà văn người Peru. Ông được trao giải de Cervantes năm 1994 và giải Nobel văn học năm 2010. Tiểu luận “Culture and the New International Order” (“La cultura y el nuevo orden internacional”) được in trong Vargas Llosa, Touchstones: Essays on Literature, Art, and Politics, select., ed., and trans. John King (London: Faber and Faber, 2007).

Văn hóa và trật tự quốc tế mới

Đây có thể là một thời điểm tốt, trong thời đại phi thường mà chúng ta đang sống, trong một thế giới chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tiến bộ của toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống, để suy ngẫm về những cách thức mà đời sống văn hóa có thể bị ảnh hưởng bởi sự tương thuộc giữa các dân tộc ngày một gia tăng vốn diễn ra như một kết quả của sự quốc tế hóa truyền thông, kinh tế, tư tưởng, và công nghệ. Có nhiều nhầm lẫn xung quanh vấn đề này và một số định kiến cần được giải quyết.

Nhưng trước hết chúng ta phải làm rõ chúng ta muốn nói gì khi dùng từ “văn hóa.” Đối với một nhà nhân chủng học thì từ này, với âm hưởng nông nghiệp của nó, biểu thị khá đơn giản toàn bộ phong tục và tín ngưỡng tiêu biểu nhất của một xã hội, từ ngôn ngữ mà những cư dân của nó dùng để giao tiếp, đến những món ăn mà họ ăn và những môn thể thao mà họ chơi, bao gồm cả những nếp sống, những vị thần, ma quỷ, và hồn ma thuộc mọi hình dạng và sắc thái của họ. Nhưng khái niệm văn hóa này rộng đến mức, bằng cách bao gồm quá nhiều điều, nó trở nên tương đối thiếu chính xác. Sẽ tốt hơn nếu giới hạn thuật ngữ này và chỉ đề cập đến khía cạnh tinh thần của đời sống con người, trong đó tri thức và tín ngưỡng—những tư tưởng và những huyền thoại—hòa trộn lẫn nhau, cho chúng ta một góc nhìn, từ đó cho phép chúng ta thấu hiểu thế giới theo một cách nhất định, với một mức độ tự tin và an toàn, và cho phép chúng ta hình thành một mối quan hệ, một cách chính xác, với những thứ xung quanh chúng ta và với đồng loại.

Càng trở lại xa hơn trong quá khứ, chúng ta thấy các nền văn hóa càng chia sẻ ít đặc điểm chung: chúng có xu hướng tách biệt hơn và nằm trong xung đột. Đó là lý do tại sao trong thời cổ đại, trong quần đảo gồm những hòn đảo chỉ biết đến mình và cô lập về mặt văn hóa, sự hồ nghi, hận thù, và chiến tranh lại thống trị quan hệ giữa các nền văn hóa. Thương mại đã có một ảnh hưởng văn minh hóa và hòa bình hóa qua thời gian, bắc cầu nối giữa các nền văn hóa xung đột và mở ra những con đường mà nhờ đó các nhà thám hiểm, khám phá, những người khôn ngoan, và nghệ sĩ (cùng với những kẻ xâm lược và tước đoạt) dần tiếp xúc và bắt đầu pha trộn, từ đó, sau một thời gian, các giá trị mà họ cùng chia sẻ dần thay thế những khác biệt trước đây.

Điều này đưa tôi đến tình hình vừa đáng sợ vừa kỳ diệu hiện nay. Bởi giờ đây chúng ta đang sống trong một thế giới mang tính tương thuộc hơn bao giờ hết nhờ quá trình quốc tế hóa, một thế giới mà trong đó một cách nhìn chung dường như đang nhanh chóng cắt giảm và dỡ bỏ những gì trước đây có vẻ là những rào cản chắc chắn và bất khả xâm phạm giữa các nền văn hóa.

Đây là một điều tích cực hay là một bi kịch đối với nhân loại? Cuộc tranh luận về vấn đề này đang chỉ mới bắt đầu, và chắc chắn sẽ trở nên phổ biến và nóng bỏng hơn trong những năm tới khi sự đối kháng gia tăng giữa những người ủng hộ và chống cái gọi là toàn cầu hóa. Nó là một cuộc tranh luận trên diện rộng, trong đó không dễ gì phân biệt các vấn đề văn hóa với các vấn đề chính trị và kinh tế, bởi lẽ chúng gắn kết chặt chẽ với nhau. Ở một số lĩnh vực, như truyền thông, việc mở cửa biên giới đã có một tác động hết sức có lợi, bởi giờ đây các chính phủ khó áp đặt kiểm duyệt hơn nhiều so với trước đây theo cách mà họ vẫn làm, bằng cách giữ người dân trong bóng tối và từ đó thao túng dư luận—và sớm thôi điều đó sẽ trở nên bất khả. Sự phát triển của phương tiện nghe nhìn và các công nghệ mới đồng nghĩa với việc ngày nay, với nỗ lực tối thiểu, công dân của bất cứ quốc gia nào cũng có thể tiếp cận những thông tin đa dạng và tương phản, và các chế độ chuyên chế, luôn tìm cách biến thông tin thành tuyên truyền, sẽ ngày càng khó ngăn chặn dòng chảy tự do của những tin tức và ý kiến độc lập vốn không chịu sự kiểm soát của họ. Đây là bước tiến lớn về tự do, và cho các xã hội vẫn chưa thoát khỏi chế độ độc tài một xung lực dân chủ lớn.

Việc mở cửa thông tin là rất quan trọng cả về văn hóa cũng như chính trị. Cuộc cách mạng công nghệ trong lĩnh vực truyền thông cũng mở ra những khả năng to lớn, chưa có tiền lệ lịch sử, cho việc truyền bá tư tưởng, văn học, khoa học, và nghệ thuật, tức là cho việc dân chủ hóa nền văn hóa, đặt nó vào tầm với của một phần lớn nhân loại, những người vì sự cô lập, ngoài lề, và nghèo đói của mình mà cho đến tương đối gần đây vẫn còn bị cách ly về mặt văn hóa.

Đúng là các tổ chức truyền thông lớn không phải lúc nào cũng sử dụng sức mạnh thôi miên mà họ có đối với khán giả rộng lớn của họ với đủ sáng tạo và chặt chẽ, và phần lớn các chương trình phổ biến nhất lại không thể gọi là chương trình văn hóa. Nhưng đừng nhầm kết quả với nguyên nhân. Nếu truyền hình và Internet không làm giàu sự nhạy cảm, sức tưởng tượng, và tri thức của chúng ta, mà thay vào đó chọn làm hài lòng mẫu số chung thô tục và vô vị nhất, thì đó là bởi khán giả mà chúng hướng đến lại đang thiếu đi sự tinh tế căn bản về tinh thần và thẩm mỹ để khước từ những mời chào ấy và đòi hỏi những chương trình đáng giá và được thực hiện tốt hơn. Dù sao đi nữa, các phương tiện đã sẵn có, và nhiệm vụ của chúng ta là đảm bảo rằng nội dung của chúng sẽ cải thiện và nâng cao chúng ta về mặt trí tuệ và như những công dân, thay vì làm u mê tâm trí chúng ta, nhấn chìm chúng ta trong cái mà Flaubert gọi là “idées reçues,” trong khuôn mẫu và định kiến.

Dân chủ hóa nền văn hóa là cần thiết, nhưng cũng có rủi ro, nếu điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta biến những tư tưởng trở nên tầm thường để mọi người đều có thể tiếp cận. Đó không phải là dân chủ hóa nền văn hóa, mà đúng hơn là phá hoại nó và thay thế nó bằng một bức biếm họa. Dân chủ hóa nền văn hóa chỉ có thể được hiểu là tạo ra những điều kiện nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sự tiếp cận văn hóa cho những ai đã chuẩn bị thực hiện nỗ lực trí tuệ cần thiết để thưởng thức và nâng cao đời sống của họ thông qua văn hóa. Và dân chủ hóa phải đảm bảo tất cả mọi người đều có cơ hội này.

Tôi xin đưa ra một minh họa ngắn gọn. Trong những năm 1960, trong gần bảy năm, tôi sống ở Pháp, làm nhà báo để kiếm sống, ban đầu ở AFP và sau này ở RTF. Một trong những câu chuyện mà tôi phải đưa tin, và tôi luôn nhớ nó vì nó rất mới mẻ và kích thích, là một chuỗi buổi đọc mà một nhóm nhà văn thực hiện ở nhiều địa điểm mà mới đầu có vẻ chẳng mấy liên quan đến văn học: trung tâm khai khoáng, nhà máy, văn phòng, câu lạc bộ thể thao, doanh trại quân đội. Tôi không nhớ cơ quan nào tài trợ sáng kiến này; nhưng nhớ là nó muốn tìm hiểu xem liệu có thể trình bày thành công văn học tốt nhất trước những thính giả tương đối lạ lẫm với văn học hay không. Các nhà văn không đọc tác phẩm của họ, mà đọc tác phẩm của những nhà văn mà họ yêu thích. Và họ được yêu cầu là không đưa ra nhượng bộ nào về độ khó của tác phẩm. Tôi đến dự hai buổi và có một ký ức sống động và rực rỡ về những gì đã diễn ra khi một nhà phê bình và tiểu thuyết gia nổi tiếng—Michel Butor, nếu tôi nhớ không nhầm—đọc một số truyện của Borges (một nhà văn khó và trí thức) ở một nhà máy. Nhờ những diễn giải rất rõ ràng, lựa chọn khôn khéo về văn bản và phong cách đọc hấp dẫn của ông, thính giả bị cuốn hút bởi những câu chuyện baroque của tác giả trong tập El Aleph, và tôi chắc chắn họ đã có một khoảng thời gian hữu ích. Theo tôi được biết, sáng kiến đó chỉ diễn ra một lần, chưa bao giờ lặp lại. Nhưng ít nhất, nó cho tôi thấy rằng văn học tốt, bên cạnh nhiều thứ khác, là một nguồn vui thú không thể so sánh được; và dù phức tạp đến thế nào thì nó cũng sớm có thể làm xiêu lòng các nhóm độc giả lớn. Có thể nói tương tự với văn hóa nói chung.

Không có gì lạ khi những câu chuyện lạ thường, tinh rèn, được sáng tác ở nửa kia thế giới của một nhà văn Argentina trong một vài giờ lại có thể kích thích trí tưởng tượng của những công nhân Pháp (chắc chắn không quen đọc văn học) ấy. Văn học tốt thì không có biên giới; hoặc đúng hơn, nó là một trong những cách tốt nhất để hạ xuống những rào cản giữa con người với nhau và cho phép họ giao tiếp và có cảm giác là một phần của một cộng đồng đơn nhất. Don Quixote bắt đầu cuộc phiêu lưu của mình trên xứ Mancha, nhưng giờ ông đã đi khắp thế giới và trong gần như mọi ngôn ngữ của trái đất, cũng như bi kịch của Romeo và Juliet mang đến một giọt lệ trong đôi mắt của phần lớn nhân loại, và tiếng nói của Tolstoy, Dante, Homer, và Molière là một di sản mà những ai từng nghe, đọc, hoặc đọc lại những cuộc phiêu lưu và bất hạnh của những nhân vật của họ, và chấp nhận chúng, đều có thể nhận cho riêng mình. Nhiều thế kỷ trước khi chúng ta nghe thấy từ “toàn cầu hóa,” những sáng tạo nghệ thuật và văn chương vĩ đại đã bắt đầu một cách có hệ thống nhằm phá bỏ những đường biên giới phân tách con người, thiết lập một mẫu số chung giữa các nền văn hóa.

Những thảm họa tồi tệ nhất mà nhân loại từng trải qua luôn là kết quả của việc thiếu giao tiếp giữa các quốc gia hoặc xã hội, sử dụng đối đầu và bạo lực thay vì đối thoại. Nếu muốn đối đầu với kẻ thù bằng niềm tin và sức mạnh tối đa, thì cần phải phi nhân hóa và phỉ báng họ. Đây là một nhiệm vụ rất mang tính văn hóa: thay thế một nhận thức khách quan về thực tại bằng những ảo vọng phản ánh sợ hãi và thù hận, thay thế con người bằng những bóng ma, tước đi trước hết là bản chất thật của họ và sau này là cuộc sống của chính họ. Tôn giáo, các ý thức hệ, và chủ nghĩa dân tộc có truyền thống cung cấp luận cứ và cái cớ nhằm phi nhân hóa các đối thủ, bước đầu tiên có thể dẫn đến các cuộc diệt chủng và holocaust đã nhuộm lịch sử thế giới bằng nỗi kinh hoàng và máu.

Văn hóa là thứ thuốc giải hiệu quả nhất mà chúng ta có đối với hành vi ấy, nó cho phép chúng ta nhận ra nhân tính của người khác, của những người khác bên cạnh những khác biệt tồn tại giữa các sắc tộc, tín ngưỡng, và ngôn ngữ khác nhau, thứ đem đến cho thế giới sự đa dạng phong phú và kích thích của nó. Văn hóa cho phép chúng ta khám phá bên dưới sự khác biệt về trang phục, phong tục, tín ngưỡng, hay địa lý một cộng đồng nền tảng cùng chia sẻ những mối quan tâm giữa con người. Điều này sẽ tạo ra một ý thức cộng đồng, khiến việc gây ra chiến tranh và giết chóc trở nên bất khả. Nhưng chúng ta biết thực tế lại không như thế, mà thay vào đó, bất chấp sự phát triển phi thường về tri thức và công nghệ, ở nhiều nơi trên thế giới, những đối lập tôn giáo hay chính trị (hoặc cả hai pha trộn lẫn nhau) vẫn tiếp tục tàn phá, như ở Trung Đông, trong khi ở những nơi khác, như biên giới giữa Ấn Độ và Pakistan, những tranh chấp lãnh thổ lâu đời vẫn khiến hàng triệu người phải sống trong lo lắng, bị đe dọa bằng một tận thế hạt nhân.

Nếu toàn cầu hóa tiếp tục lan đến và bao bọc mọi quốc gia trên thế giới như một mạng lưới của những trao đổi và trách nhiệm và mối quan tâm chung, rất có thể nó sẽ là phương pháp hiệu quả nhất của nhân loại nhằm chấm dứt xung đột vũ trang, bắt đầu giải trừ quân bị và làm việc hướng tới hòa bình trên thế giới.

Lý tưởng này sẽ khả dĩ chừng nào tiến trình hội nhập mà chúng ta gọi là toàn cầu hóa không chỉ mang tính kinh tế là chủ yếu, như định nghĩa hẹp của tiến trình này mà có thể chúng ta vẫn tin. Dĩ nhiên, nếu chỉ giới hạn trong thương mại, mở ra các thị trường cho mọi sản phẩm, thì những dự đoán bi quan nhất về những hệ quả của toàn cầu hóa có thể sẽ trở thành hiện thực. Toàn cầu hóa thuần túy về kinh tế sẽ vô ích và trên thực tế là không thể. Các thị trường mở và cạnh tranh không phải là thị trường để ngỏ cho những ý định bất chợt của người mua và người bán, nhà đầu tư và người tiêu dùng. Chúng được điều chỉnh một cách rõ ràng và công bằng, bởi các tòa án hiệu quả và trung thực, đảm bảo hợp đồng được đưa ra và xử phạt các bên vi phạm quyền của các bên khác. Và hệ thống chính trị duy nhất đảm bảo được sự tồn tại của những thẩm phán độc lập là dân chủ. Vì lý do đó, không phải ngẫu nhiên mà những đối thủ gay gắt nhất của toàn cầu hóa cũng đang chống lại nền dân chủ. Họ là những người cảm thấy nhung nhớ những hệ thống toàn trị, theo chiều dọc [tập trung hóa] của cực hữu và cực tả. Để toàn cầu hóa có lợi cho thế giới, điều cơ bản là bên cạnh thị trường, nó nên tìm cách toàn cầu hóa cả nền dân chủ chính trị.

Có một số định kiến dai dẳng phản đối toàn cầu hóa tồn tại trong lĩnh vực văn hóa. Lập luận ở đây là nếu toàn cầu hóa trở thành hiện thực thì mọi nền văn hóa của thế giới sẽ biến mất, bị san phẳng bởi nền văn hóa Anglo-Saxon, và nó, dưới bàn tay của siêu cường Hoa Kỳ, sẽ áp đặt khuôn mẫu lên mọi quốc gia trên hành tinh, dưới một hình thức chủ nghĩa thực dân văn hóa mới.

Tôi muốn khám phá chi tiết hơn lập luận văn hóa chống toàn cầu hóa này, được trình bày tương tự như sau:

Sự biến mất của biên giới quốc gia và việc thành lập một thế giới được kết nối bởi các thị trường quốc tế sẽ giáng một đòn chết người lên các nền văn hóa khu vực và quốc gia, lên các truyền thống, phong thục, thần thoại, và các hình mẫu hành vi vốn xác định bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng hay quốc gia. Không thể chống lại sự xâm lấn của các sản phẩm văn hóa từ các nước phát triển—hoặc đúng hơn là từ siêu cường Hoa Kỳ—điều chắc chắn sẽ xuất hiện sau các tập đoàn đa quốc gia lớn, nền văn hóa Mỹ cuối cùng sẽ chiếm ưu thế, khiến toàn bộ thế giới trở nên thuần nhất, phá hủy sự đa dạng phong phú của các nền văn hóa vốn vẫn đang phát triển mạnh. Bằng cách này, mọi cộng đồng khác, không chỉ những cộng đồng nhỏ và yếu, sẽ mất đi bản sắc của họ—linh hồn của họ—và trở thành dân tộc thuộc địa của thế kỷ 21, kẻ theo chân mù quáng, những cái xác không hồn hoặc biếm họa theo mô hình của các giá trị văn hóa của chủ nghĩa đế quốc mới, thứ sẽ thống trị thế giới không chỉ nhờ vốn, công nghệ, sức mạnh quân sự, và tri thức khoa học của nó, mà còn bằng cách áp đặt ngôn ngữ, cách nghĩ, niềm tin, thú tiêu khiển, và những ước mơ của nó lên người khác.

Cơn ác mộng hay một utopia tiêu cực về một thế giới, thông qua toàn cầu hóa, đã đánh mất sự đa dạng về ngôn ngữ và văn hóa của mình, và thay vào đó trở thành một nền văn hóa Mỹ hóa thuần nhất, không phải là một ý tưởng chỉ được phát triển bởi các phe thiểu số chính trị của những người cực tả vẫn hoài niệm chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Mao, và chủ nghĩa Guevara của Thế giới Thứ ba, một dạng phức cảm bị hại xen lẫn với lòng thù hận và cay đắng đối với gã khổng lồ Mỹ, như một số người nghĩ. Có thể nhận ra nó ở cả các nước phát triển, các nước phát triển cao về văn hóa, và nó cũng được những người ở cả cánh tả, cánh hữu, lẫn trung dung cùng chia sẻ. Có lẽ ví dụ nổi bật nhất là Pháp, nơi chính phủ theo các định hướng chính trị khác nhau vẫn định kỳ bắt đầu những chiến dịch bảo vệ “bản sắc văn hóa” Pháp, vốn được cho là đang bị toàn cầu hóa đe dọa. Một nhóm lớn bao gồm các trí thức và chính trị gia trở nên lo ngại rằng vùng đất từng sản sinh Montaigne, Descartes, Racine, và Baudelaire và thiết lập chuẩn mực cho thời trang, triết học, hội họa, và ẩm thực, và trong mọi vấn đề tri thức khác, có thể đang bị McDonald’s, Pizza Hut, KFC, rock và rap, phim Holywood, quần jeans, giày thể thao, và áo polo xâm lấn. Nỗi sợ này dẫn tới việc, ví dụ, Pháp tài trợ ồ ạt cho ngành điện ảnh địa phương, và đã có nhiều chiến dịch đòi hỏi một hệ thống hạn ngạch hạn chế chiếu phim Mỹ và đảm bảo một tỷ lệ nhất định cho các bộ phim địa phương. Đó cũng là lý do tại sao lại có nhiều quy định nghiêm ngặt của các thành phố về các mức phạt nặng đối với hành vi làm băng hoại ngôn ngữ dân tộc của Molière bằng cách sử dụng từ tiếng Anh trên biển quảng cáo (dù nếu dạo quanh Paris, bạn sẽ thấy chúng có vẻ không được tuân thủ nghiêm chỉnh). Và đừng quên José Bové, người nông dân trở thành lính thập tự chinh chống malbouffe (thức ăn rác) từng đập phá một cửa hàng McDonald’s, gần như đã trở thành một anh hùng nổi tiếng ở Pháp.

Dù tôi cho rằng lập luận văn hóa chống toàn cầu hóa này là không thể chấp nhận được, ta vẫn phải thừa nhận rằng ở trung tâm của nó có một sự thật không thể phủ nhận. Thế giới mà chúng ta sẽ sống trong thế kỷ chỉ mới bắt đầu này sẽ kém sống động, kém màu sắc hơn nhiều so với thế kỷ mà chúng ta vừa đi qua. Các lễ hội, trang phục, nghi lễ, nghi thức, và tín ngưỡng từng đem lại sự đa dạng văn hóa dân gian và dân tộc học trong quá khứ sẽ bắt đầu biến mất, hoặc bị giới hạn trong các nhóm rất nhỏ, trong khi phần lớn xã hội sẽ từ bỏ những hình thức đó và chấp nhận những hình thức khác phù hợp hơn với thời đại mà chúng ta đang sống. Đây là một quá trình mà mọi quốc gia trên thế giới đều đang trải qua, một số nhanh hơn, số khác chậm hơn. Nhưng đó không phải là do toàn cầu hóa, mà do hiện đại hóa, và là kết quả, không phải nguyên nhân. Dĩ nhiên, chúng ta có thể hối tiếc vì những gì đang diễn ra và cảm thấy luyến tiếc sự ra đi của những hình thức đời sống trong quá khứ, thoải mái, độc đáo và đầy màu sắc đối với chúng ta, nhất là khi nhìn từ góc nhìn tiện nghi của hiện tại. Nhưng tôi nghĩ điều mà chúng ta không thể làm là tránh cho nó khỏi diễn ra. Ngay cả các nước như Cuba hay Bắc Triều Tiên, vốn lo sợ việc mở cửa sẽ hủy diệt các chế độ toàn trị đang nắm quyền và do đó tìm cách chống lại sự hiện đại bằng cấm vận và kiểm duyệt, cũng không thể ngăn cản tiến trình này, ngăn nó khỏi làm xói mòn cái gọi là “bản sắc văn hóa” của họ. Về lý thuyết, một đất nước có thể giữ gìn bản sắc này trong sự cô lập hoàn toàn, như một số bộ lạc hẻo lánh ở châu Phi hay Amazon, cắt đứt mọi hình thức trao đổi với các dân tộc khác và hoàn toàn tự cung tự cấp. Một bản sắc văn hóa được bảo tồn như thế sẽ đưa xã hội đó trở lại thời đại của người tiền sử.

Đúng là hiện đại hóa khiến nhiều hình thức đời sống truyền thống biến mất, nhưng nó cũng mở ra những cơ hội và đem lại, theo nghĩa rộng, một bước tiến lớn cho nhân loại. Đây là lý do tại sao khi có thể tự do lựa chọn, con người lại chọn hiện đại hóa mà không do dự, thường đi ngược lại mong muốn của các nhà lãnh đạo của họ hoặc mong muốn của các trí thức truyền thống.

Lập luận ủng hộ “bản sắc văn hóa” và chống toàn cầu hóa dựa trên một khái niệm về văn hóa vốn khước từ sự thay đổi và không có cơ sở lịch sử. Nền văn hóa nào giữ được bản sắc qua thời gian? Chúng ta sẽ cần tìm trong những cộng đồng tôn giáo ma thuật nguyên thủy, những con người sống trong hang động, tôn thờ sấm sét và thú dữ, những con người vì bản chất nguyên thủy của mình mà ngày càng dễ bị tổn thương hơn trước sự bóc lột và tuyệt chủng. Mọi nền văn hóa khác, nhất là những nền văn hóa có quyền được gọi là các nền văn hóa sống, hiện đại, đều đã phát triến đến mức giờ đây chúng chỉ đơn thuần là hình ảnh phản ánh xa xôi của mình trong quá khứ hai hoặc ba thế hệ trước. Điều này đặc biệt đúng với các nước như Pháp, Tây Ban Nha, và Anh, nơi trong 50 năm qua đã có những thay đổi sâu sắc và ngoạn mục đến mức ngày nay một Proust, García Lorca, hay một Woolf Virginia—có những tác phẩm đóng góp rất lớn trong việc đem đến những thay đổi đó—sẽ khó mà nhận ra được xã hội khi họ ra đời.

Quan niệm “bản sắc văn hóa” nguy hiểm ở chỗ, từ quan điểm xã hội, thuật ngữ này yếu về mặt khái niệm, và từ quan điểm chính trị, nó có thể gây phương hại cho thành tựu quý giá nhất trong những thành tựu của con người, đó là tự do. Dĩ nhiên, tôi không phủ nhận rằng những người nói cùng một ngôn ngữ, sinh ra và sống trong cùng một khu vực, đối mặt với những vấn đề như nhau và có cùng tôn giáo và cùng phong tục thì có cùng những đặc điểm chung. Nhưng mẫu số tập thể này không thể xác định cái cụ thể đối với mỗi thành viên trong nhóm, những thuộc tính và đặc điểm riêng biệt, phân biệt họ với những người khác. Khái niệm bản sắc, khi không được dùng để xác định các cá nhân, mà để đại diện cho một nhóm, thì mang tính giản lược và phi nhân hóa. Nó là trò ảo thuật tôn giáo ma thuật khiến mọi thứ vốn mang tính sáng tạo và độc đáo ở con người, mọi thứ chống lại các giá trị kế thừa hay áp lực địa lý hoặc xã hội, trở nên trừu tượng dưới danh nghĩa tự do cá nhân.

Trên thực tế, khái niệm bản sắc tập thể, nền móng sản sinh chủ nghĩa dân tộc, chỉ là một hư cấu ý thức hệ. Nó là một khái niệm mà nhiều nhà dân tộc học và nhân chủng học cho là không thể được áp dụng ngay cả cho các cộng đồng cổ xưa nhất. Bởi lẽ, dù phong tục và tín ngưỡng chung có quan trọng đến đâu trong việc bảo vệ nhóm thì vẫn luôn có một biên độ lớn dành cho sáng kiến và sáng tạo giữa các thành viên của nhóm, tách biệt với nhóm, và khác biệt cá nhân quan trọng hơn các đặc tính tập thể khi chúng ta khảo cứu cá nhân theo nghĩa là chính cá nhân chứ không như thành tố thứ cấp của tập thể. Và một trong những lợi thế lớn của toàn cầu hóa là nó mở rộng đáng kể khả năng là mỗi công dân trên quả địa cầu có những mối liên kết bên trong lẫn nhau—đất mẹ của mọi người—này phải xây dựng bản sắc văn hóa của mình cho phù hợp với những ưu tiên và động lực nội tại của mình, và thông qua hành động cách mạng của mình. Bởi giờ đây họ không còn bị ép phải tuân theo một bản sắc, như một chiếc áo bó, thứ buộc họ phải chấp nhận ngôn ngữ, tôn giáo, và phong tục nơi họ sinh ra như trong quá khứ và như ở nhiều nơi trong hiện tại. Theo ý nghĩa này, toàn cầu hóa nên được hoan nghênh do nó mở rộng đáng kể phạm vi của tự do cá nhân.

Mỹ Latin có lẽ là ví dụ tốt nhất của việc cố gắng thiết lập những bản sắc tập thể thì nhân tạo và phi thực, nếu không nói là hết sức vô lý như thế nào. Bản sắc văn hóa của Mỹ Latin có thể là gì? Chúng ta có thể xác định một tập hợp tín ngưỡng, phong tục, truyền thống, và thần thoại đơn nhất và thống nhất hay không? Lịch sử của chúng ta đầy những bút chiến trí thức—một số rất gay gắt—tìm cách trả lời câu hỏi này. Nổi tiếng nhất có lẽ là cuộc bút chiến vang vọng trên khắp lục địa trong những năm 1920 giữa những nhà Tây Ban Nha chủ nghĩa và bản địa chủ nghĩa. Với các nhà Tây Ban Nha chủ nghĩa như José de la Riva Agüero, Víctor Andrés Belaunde, và Francisco García Calderón thì Mỹ Latin ra đời khi, thông qua Khám phá và Chinh phục, nó đi vào quan hệ với châu Âu, và khi, thông qua tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mà các nhà thám hiểm và xâm lược mang đến, và thông qua việc theo Cơ Đốc giáo, nó trở thành một phần của nền văn minh phương Tây. Các nhà Tây Ban Nha chủ nghĩa không xem nhẹ các nền văn hóa tiền Tây Ban Nha, nhưng với họ, chúng chỉ là một lớp nền—và không phải lớp nền quan trọng nhất—của một thực tại lịch sử và xã hội chỉ có được hình thức và định nghĩa cuối cùng của mình nhờ ảnh hưởng hồi sinh của phương Tây.

Trái lại, với sự phẫn nộ về mặt đạo đức, các nhà bản địa chủ nghĩa lại bác bỏ mọi lợi ích giả định mà người châu Âu có thể đã đem đến châu Mỹ. Đối với họ, gốc rễ và linh hồn bản sắc của chúng ta nằm trong các nền văn hóa và văn minh tiền Tây Ban Nha và sự phát triển và hiện đại hóa của chúng đã bị kìm hãm một cách tàn bạo bằng bạo lực và phải chịu sự kiểm duyệt, đàn áp, và biệt lập bất công, không chỉ trong suốt ba thế kỷ thực dân, mà còn sau cả Độc lập. Và, theo các nhà bản địa chủ nghĩa, có thể thấy biểu đạt Mỹ đích thực (mượn lời Lezama Lima) trong mọi biểu hiện văn hóa—từ các ngôn ngữ bản địa đến các tín ngưỡng, nghi lễ, nghệ thuật, và phong tục dân gian—đã chống lại sự đàn áp văn hóa phương Tây và tồn tại được đến thời đại chúng ta. Một sử gia nổi tiếng thuộc trường phái này, Luis E. Valcárcel người Peru, cực đoan đến mức đã nói trong một trong những cuốn sách của ông—Ruta colonial del Perú (Con đường thuộc địa của Peru)—rằng các nhà thờ, tu viện, và những di tích kiến trúc thuộc địa khác phải bị phá hủy vì chúng đại diện cho cái “Phản Peru,” sự áp đặt, sự phủ định bản sắc Mỹ hoang sơ, vốn chỉ có thể được dựa trên những nền tảng bản địa. Và một trong những tiểu thuyết gia độc đáo nhất của Mỹ Latin, José María Arguedas, trong những câu chuyện mang tính phản kháng đạo đức tinh tế và sôi nổi, đã kể lại sự sống sót anh hùng và kín đáo của nền văn hóa Quechua trong thế giới Andes bất chấp sự hiện diện ngạt thở và bóp méo của phương Tây.

Chủ nghĩa Tây Ban Nha và chủ nghĩa bản địa đều đưa ra một số tiểu luận lịch sử xuất sắc, cũng như các tác phẩm hư cấu quan trọng, nhưng từ quan điểm hiện nay, cả hai học thuyết dường như đều mang tính phe phái, giản lược, và sai lầm như nhau. Bó buộc trong những chiếc áo ý thức hệ và có chút phân biệt chủng tộc, không học thuyết nào có thể nắm bắt được sự đa dạng lớn lao của Mỹ Latin. Ngày nay còn ai dám nói chỉ người Tây Ban Nha hoặc chỉ người bản địa mới có thể chính danh tuyên bố đại diện cho Mỹ Latin?

Tuy nhiên, những nỗ lực xác định và cô lập “bản sắc bản địa” của chúng ta vẫn tiếp tục nổi lên, với sự ương ngạnh trí thức và chính trị mà đáng lẽ tốt hơn nên dành cho những lý tưởng xứng đáng hơn. Bởi lẽ tìm cách áp đặt một bản sắc văn hóa lên một dân tộc cũng giống như cầm tù họ và tước đoạt cái tự do quý giá nhất của họ: quyền được chọn mình muốn là gì, là ai, và như thế nào. Mỹ Latin không chỉ có một mà có nhiều bản sắc văn hóa, và không bản sắc nào có thể tuyên bố mình chính danh hơn, thuần túy hơn, hay chân thực hơn những bản sắc khác; tất cả chúng đều khiến Mỹ Latin trở thành một vùng đất đa nguyên như bây giờ, với những phân nhánh ngôn ngữ, truyền thống, phong tục, và sắc tộc đa dạng.

Dĩ nhiên Mỹ Latin là thế giới và các nền văn hóa tiền Tây Ban Nha còn duy trì nó cho đến thời đại chúng ta và ở các nước như Mexico, Guatemala, và các nước Andes, chúng vẫn còn ý nghĩa rất quan trọng đối với xã hội. Nhưng Mỹ Latin cũng là một nhóm lớn gồm những người nói tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, có truyền thống 500 năm, với sự hiện diện và những hành động mang tính quyết định trong việc định hình lục địa. Và chẳng phải còn một phần nào đó của châu Phi ở Mỹ Latin, đặt chân lên những bờ biển của chúng ta cùng với người châu Âu hay sao? Chẳng phải sự hiện diện của châu Phi đã in dấu không thể xóa nhòa lên làn da, âm nhạc, cách sống, cảnh quan xã hội của chúng ta hay sao? Khi khám phá sự pha trộn văn hóa, sắc tộc, và xã hội làm nên Mỹ Latin, chúng ta nhận ra mình có liên quan đến gần như mọi khu vực và nền văn hóa của thế giới. Và đây, thứ ngăn cản chúng ta có một bản sắc văn hóa đơn nhất—chúng ta có nhiều đến nỗi chẳng có gì—đối lập với những gì mà các nhà dân tộc chủ nghĩa vẫn tin, là tài sản lớn nhất của chúng ta. Nó cũng cho chúng ta những phẩm chất tuyệt vời để cảm nhận được tư cách công dân trọn vẹn trong thế giới toàn cầu ngày nay.

Nỗi sợ về sự Mỹ hóa hành tinh này dựa nhiều vào cơn hoang tưởng ý thức hệ hơn vào thực tế. Dĩ nhiên, với toàn cầu hóa, chắc chắn sự thống trị của tiếng Anh, thứ ngôn ngữ sắp trở thành ngôn ngữ chung của thời đại chúng ta, như tiếng Latin thời Trung Cổ, sẽ tiếp tục lớn mạnh, bởi vì nó là tối cần thiết đối với thông tin liên lạc và giao dịch quốc tế. Có phải điều đó đồng nghĩa với việc tiếng Anh sẽ phát triển đến mức gây hại cho các ngôn ngữ quan trọng khác? Dĩ nhiên là không. Có thể điều ngược lại sẽ xảy ra. Sự biến mất của các đường biên giới và triển vọng về một thế giới tương thuộc đã trở thành một động lực khuyến khích thế hệ mới học hỏi và tiếp thu các nền văn hóa khác (mà giờ có thể trở thành nền văn hóa của họ nếu họ muốn), không vì sở thích mà vì cần thiết, bởi việc nói nhiều thứ tiếng khác nhau và có thể thích nghi với các nền văn hóa khác nhau ngày nay là một phẩm chất rất quan trọng cho sự thành công nghề nghiệp. Tôi xin lấy tiếng Tây Ban Nha làm ví dụ. Năm mươi năm trước, những người nói tiếng Tây Ban Nha chúng ta vẫn chỉ là một cộng đồng ít nhiều khép kín, có rất ít ảnh hưởng bên ngoài ranh giới ngôn ngữ truyền thống của mình. Ngày nay, trái lại, cộng đồng này đang lớn mạnh, mở rộng ảnh hưởng của nó trên khắp năm châu. Việc ở Hoa Kỳ hiện nay có 25–30 triệu người nói tiếng Tây Ban Nha lý giải tại sao trong kỳ bầu cử tổng thống trước, cả hai ứng cử viên, Thống đốc Bush và Phó Tổng thống Al Gore, đều tiến hành các chiến dịch tranh cử tổng thống của họ bằng cả tiếng Tây Ban Nha cũng như bằng tiếng Anh.

Bao nhiêu người trẻ thuộc cả hai giới trên thế giới, nhờ những thách thức của toàn cầu hóa, đã bắt đầu học tiếng Nhật, tiếng Đức, Quan thoại, Quảng Đông, Ả Rập, tiếng Nga, hoặc tiếng Pháp? Rất nhiều, dĩ nhiên, và đây là một xu hướng mà may mắn là chỉ có thể gia tăng trong những năm tới. Vì lý do đó, sự bảo vệ tốt nhất dành cho ngôn ngữ và văn hóa của một người là thúc đẩy chúng trên khắp thế giới mới mà chúng ta đang sống, thay vì cố ngây thơ bảo vệ chúng trước sự đe dọa của tiếng Anh. Những ai đề xuất phương pháp này, dù nói rất nhiều về văn hóa, thường chỉ là một nhóm những kẻ vô văn hóa cố che giấu niềm tin thực sự của mình: lý tưởng chủ nghĩa dân tộc. Và chẳng có gì đi ngược lại văn hóa hơn tầm nhìn cục bộ, độc quyền, và lẫn lộn của những nhà dân tộc chủ nghĩa về văn hóa. Bài học đáng ngưỡng mộ nhất mà văn hóa dạy chúng ta là nó không cần các quan chức hay ủy viên bảo vệ, không cần giới hạn sau những rào chắn, hoặc được hải quan cách ly để được tươi mới và lành mạnh. Văn hóa cần được sống trong tự do, liên tục tiếp xúc với các nền văn hóa khác, từ đó được làm giàu và làm mới. Trong thời cổ đại, tiếng Latin không giết chết tiếng Hy Lạp; trái lại, tính độc đáo nghệ thuật và chiều sâu trí tuệ của văn hóa Hy Lạp đã lan tỏa trong nền văn minh La Mã và thông qua nền văn minh này mà những bài thơ của Homer và triết học của Plato và Aristotle đã vươn đến toàn bộ thế giới. Toàn cầu hóa sẽ không khiến các nền văn hóa địa phương biến mất; mọi thứ tốt đẹp của chúng sẽ tìm được nơi phát triển trong thế giới mở này.

Trong tiểu luận nổi tiếng, Notes Towards the Definition of Culture (Những ghi chép về định nghĩa văn hóa), T. S. Eliot dự đoán trong tương lai nhân loại sẽ chứng kiến sự phục hưng của các nền văn hóa địa phương và khu vực, và lời tiên tri của ông có vẻ khá ước đoán ở thời điểm đó. Tuy nhiên, toàn cầu hóa có thể sẽ biến dự đoán của ông trở thành hiện thực trong thế kỷ 21, và chúng ta nên vui mừng. Sự phục hưng của các nền văn hóa địa phương nhỏ sẽ khôi phục sự đa dạng phong phú của những hành vi và biểu đạt mà từ cuối thế kỷ 18 và đặc biệt trong thế kỷ 19 đã bị quốc gia dân tộc xóa bỏ, đôi lúc theo nghĩa đen hơn là theo nghĩa ẩn dụ của từ này, nhằm tạo ra cái gọi là bản sắc văn hóa dân tộc—và đây là điều thường bị lãng quên hoặc người ta tránh nhớ vì những ý nghĩa đạo đức của nó. Điều này thường đạt được bằng vũ lực, bằng cách cấm giảng dạy và xuất bản ngôn ngữ bản xứ hoặc thực hành các tôn giáo và phong tục bị cho là không phù hợp với Dân tộc. Do đó, ở hầu hết các nước trên thế giới, các quốc gia dân tộc đều được hình thành bằng sự áp đặt cưỡng buộc một nền văn hóa thống trị lên các nền văn hóa thiểu sổ, yếu hơn, bị bóp nghẹt và sau đó loại bỏ khỏi đời sống chính thức. Nhưng trái với những gì mà những người lo sợ toàn cầu hóa có thể nghĩ, không dễ gì xóa bỏ một nền văn hóa ra khỏi bản đồ, cho dù nó nhỏ đến đâu, nếu nó có một truyền thống phong phú đằng sau, và còn một nhóm người trung thành với văn hóa của nó, dù trong bí mật. Và ngày nay chúng ta bắt đầu thấy khi quốc gia dân tộc trở nên ít cứng nhắc hơn, các nền văn hóa địa phương vốn bị cô lập ngoài lề hoặc câm lặng đang bắt đầu xuất hiện trở lại và đôi lúc còn cho thấy dấu hiệu của một đời sống tương đối sôi động.

Điều này đang diễn ra ở mọi nơi ở châu Âu. Có lẽ chúng ta nên nhắc đến Tây Ban Nha và sự phát triển năng động của các nền văn hóa khu vực của nó. Trong 40 năm nền độc tài Franco, chúng bị đàn áp và có rất ít cơ hội thể hiện bản thân, buộc phải lui về một sự tồn tại bán bí mật. Nhưng dân chủ đã mang đến tự do để phát triển sự đa dạng phong phú của nền văn hóa Tây Ban Nha, và đã đạt được những thành công phi thường, chủ yếu ở Catalonia, Galicia, và xứ Basque, nhưng cũng ở nhiều khu vực khác. Dĩ nhiên, chúng ta không nên nhầm lẫn sự phục hưng văn hóa địa phương, vốn tích cực và phong phú, với hiện tượng chủ nghĩa dân tộc độc quyền, vốn là một nguồn vấn đề và một mối đe dọa nghiêm trọng đối với văn hóa của tự do.

Toàn cầu hóa đặt ra nhiều thách thức về chính trị, pháp lý, và hành chính. Và nếu đi cùng với nó không phải là sự lan rộng và củng cố dân chủ—tự do và luật pháp—trên toàn cầu thì có thể nó đã có những hệ quả tai hại, tạo điều kiện cho, ví dụ, quốc tế hóa chủ nghĩa khủng bố và các tập đoàn tội phạm. Nhưng so với những lợi ích và cơ hội mà nó mang lại, trên tất cả là cho các nước nghèo và tụt hậu cần tiến bộ nhanh chóng để đạt được mức sống tương đối cho người dân của họ, chúng ta phải tìm cách đối mặt với những thách thức ấy với sự nhiệt tình và trí tưởng tượng. Và với niềm tin rằng chưa bao giờ, trong lịch sử lâu dài của nền văn minh, chúng ta từng có nhiều nguồn lực khả dụng về trí tuệ, khoa học, và kinh tế như hiện nay để chiến đấu chống những tệ nạn căn cơ là nạn đói, chiến tranh, định kiến, và áp bức. ♦

Copyright © 2002 by Mario Vargas Llosa | Bản dịch © 2016 Nguyễn Huy Hoàng.

Ghi chú của người dịch: Một phần của tiểu luận này, từ đoạn “Sự biến mất của biên giới quốc gia và việc thành lập một thế giới…” cho đến đoạn kế cuối, đã được dịch sang tiếng Anh (không rõ dịch giả) và đăng trên tạp chí Foreign Policy (November, 2009) dưới nhan đề “The Culture of Liberty.” Riêng phần này đã có hai bản dịch tiếng Việt, “Nền văn hóa của tự do” của Phạm Nguyên Trường, và “Văn hóa của tự do” của Ngân Xuyên. Bản dịch trong tiểu luận này là một bản dịch mới.

Advertisement

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

Information

This entry was posted on August 10, 2016 by in Chính trị, Văn hóa & Xã hội and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

%d bloggers like this: