Photograph by Jack Davison for The New Yorker
Isaac Bashevis Singer sinh năm 1904 ở một ngôi làng gần Warsaw, Ba Lan, và lớn lên trong khu Do Thái nói tiếng Yiddish của thành phố. Dù ban đầu cân nhắc trở thành thầy đạo như cha mình, Singer đã từ bỏ nghiên cứu tôn giáo trong những năm tuổi hai mươi để theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 1935, khi mối đe dọa của Đức Quốc xã ngày càng đáng ngại, Singer chuyển đến Mỹ. Tuy xuất bản nhiều tiểu thuyết, sách thiếu nhi, hồi ký, và tiểu luận, ông nổi tiếng nhất với tư cách nhà văn viết truyện ngắn. Ông được trao giải Sách Quốc gia Mỹ cho tác phẩm hư cấu năm 1974 và giải Nobel văn chương năm 1978, và qua đời ở Florida năm 1991.
Truyện ngắn “The Boarder,” nhiều khả năng được viết giữa những năm 1950 với bản dịch tiếng Anh do tác giả tự thực hiện, được in lần đầu trên tạp chí The New Yorker (May 7, 2018 Issue).
Bên ngoài có tiếng rù rì của một chiếc xe tải không chịu nổ máy. Nó lọc xọc và khò khè như thể linh hồn kim loại của nó sắp mãn hạn. Trẻ con chơi bóng chày và hò hét om sòm. Không khí qua cửa sổ mở có mùi của xăng, hành lá, và sớm hè. Một bầy ruồi bay quanh đèn trần, vo ve một cách đơn điệu. Qua cửa sổ treo rèm kiểu Hà Lan, một con bướm bay vào và đậu trên bàn. Nó đứng bất động, cánh khép vào nhau, chờ đợi với sự bình thản chết người của một loài sinh vật chỉ sống một thời gian ngắn. Reb Berish Zhichliner, choàng khăn cầu nguyện và đeo hộp đựng kinh, đã đọc xong các lời cầu nguyện thông thường, nhưng vẫn tiếp tục ngâm những lời thỉnh nguyện bổ sung, thứ mà chỉ những người rất sùng đạo và những người có nhiều thời gian mới lặp lại.
Râu của Reb Berish bạc còn mặt thì đỏ. Ông có đôi mày rậm và cặp bọng treo dưới mắt. Ông mới nghỉ hưu từ nghề buôn vải vụn được hai năm. Suốt 40 năm, ông có một cái xe đẩy hàng ở Lower East Side, và cả ở Williamsburg đây. Vợ ông, con trai, và một đứa con gái của ông đã chết trong thời gian ấy. Một đứa con gái khác thì đang sống với một anh chồng dân Ngoại ở đâu đó California. Reb Berish chẳng còn gì ngoài đồng lương hưu, một ô đất mộ trong nghĩa trang của Hội Sochaczew, và một căn hộ trên phố Clymer. Để không phải sống một mình, ông nhận một người tị nạn vào làm khách trọ, một gã đàn ông đã trở về từ các trại tập trung, sống một thời gian ở Nga Xô, rồi lang thang khắp nửa thế giới. Tên hắn là Morris Melnik. Hắn đóng tiền thuê 15 đô một tháng. Lúc này hắn còn đang ngủ trong phòng, có cửa sổ mở ra lối thoát hiểm.
Reb Berish nhận hắn vào vì thương hại nhiều hơn là vì 15 đô la. Morris Melnik đã mất tất cả mọi thứ: bố mẹ, các anh chị em, vợ và đứa con của mình. Thế nhưng Reb Berish lại hối hận vì đã mở cửa nhà. Melnik là một kẻ hay chế nhạo và vô tín ngưỡng, một kẻ dâm dục, một sinh vật trái ngược. Hắn đã cố làm trò với phụ nữ trong khu. Hắn trộn các món thịt và sữa vào với nhau. Hắn về nhà lúc hai giờ sáng và ngủ đến tận gần trưa. Hắn không cầu nguyện, không đón ngày Sabbath. Đúng lúc Reb Berish bắt đầu tụng Mười ba Nguyên tắc của Đức tin thì Melnik bước vào phòng: một gã đàn ông nhỏ thó, mặt vàng như bị vàng da, đầu chỉ còn lưa thưa mấy sợi tóc đen và xám. Hắn mặc bộ đồ ngủ đỏ và đi đôi dép lê rách. Hắn chưa cạo râu và có những cái bóng đen trên đôi má hóp. Cằm hắn nhọn, sống mũi mỏng. Đôi mắt nhỏ giấu đằng sau cặp lông mày dài như kim. Hắn làm Reb Berish nhớ đến một con nhím. Khi mở miệng hắn làm lộ ra một hàm răng đầy những chỗ trám vàng. Hắn nói, “Ông vẫn đang cầu nguyện hả Reb Berish?”
“Ừ…”
“Ông cầu nguyện với ai chứ? Với vị Chúa đã tạo ra Hitler và cho hắn sức mạnh để giết hại sáu triệu người Do Thái à? Hay là với vị Chúa đã tạo ra Stalin và để hắn thanh lý thêm mười triệu nạn nhân khác? Thật đấy, Reb Berish, ông không đút lót được Chúa tể của Vũ trụ bằng cặp hộp đựng kinh này đâu. Hắn là một thằng khốn hạng nhất, một kẻ bài Do Thái khủng khiếp.”
“Pfui.” Reb Berish nhăn mặt. “Biến đi.”
“Chúng ta còn sợ sệt trước Hắn và ca những bài Thánh Vịnh bao lâu nữa đây?” Melnik tiếp tục. “Tôi đã thấy tận mắt bọn chúng ném một người Do Thái đương choàng khăn cầu nguyện và đeo hộp đựng kinh vào một con mương đầy cứt như thế nào kia. Đầy cứt thật luôn.”
Mặt Reb Berish đã đỏ nay còn đỏ hơn. Ông vội vã hoàn thành các Tín điều của Đức tin để có thể trả lời gã khách trọ của mình. Ông lẩm bẩm, “Con tin vào đức tin trọn vẹn rằng người chết sẽ được phục sinh vào lúc Đấng Sáng tạo hài lòng. Phúc cho tên Người, và cầu sự tưởng nhớ Người được tôn vinh mãi mãi.” Ông gập quyển kinh cầu lại nhưng vẫn kẹp ngón trỏ ở giữa, để có thể giở lại sau khi đã cho Melnik một câu trả lời thích đáng. Ông thở dài và càu nhàu.
“Cậu có thôi báng bổ đi không? Tôi không bảo cậu phải cư xử thế nào, cậu cũng đừng ra mặt dạy tôi. Dù cậu có thấy gì thì Đấng Toàn năng vẫn là một vị Chúa đầy lòng thương xót. Chúng ta không biết được cách của Người. Biết Người thì ta đã giống như Người. Tự do ý chí đã được ban cho chúng ta, thế thôi. Những kẻ ném người Do Thái kia vào bẩn thỉu sẽ không bao giờ thoát khỏi Gehenna, còn linh hồn được ban phước của anh ta sẽ an nghỉ bên Ngai vàng Vinh quang.”
“Nhảm nhí. Toàn là những lời sáo rỗng. Linh hồn ở đâu chứ? Chẳng có linh hồn đâu, Reb Berish ạ. Nó được tạo ra bởi những kẻ nhàn rỗi trong học đường mà thôi. Ở Nga kia có một vị giáo sư Pavlov, ông ta là giỏi nhất trong tất cả bọn họ. Một gã “ra trò” đấy, như người ta nói ở Mỹ. Ông ta xẻ não chó ra và chẳng thấy có linh hồn nào ở đấy cả. Não là một cái máy, như trong máy bán hàng tự động thôi. Ông thả ba nickel vào là tòi ra một cái sandwich. Cái máy đâu cần mấy đồng của ông. Ông bỏ tiền gỗ vào cũng được. Nó được chế tạo ra như thế, đâu có gì khác.”
“Cậu so một con người thánh thiện với một con chó, một cái máy bán hàng. Cậu nên thấy xấu hổ về mình, cậu Melnik ạ. Máy là máy, còn con người thì được tạo ra theo hình ảnh của Chúa.”
“Hình ảnh của Chúa! Tôi ngồi tù ở Moskva cùng buồng với cả Thầy đạo xứ Bludnov. Bảy tuần liền, chúng tôi ngồi cạnh nhau, và suốt thời gian ấy ông ta chỉ làm mỗi một việc: nghiên cứu Torah. Ông ta bị trĩ, nên lúc ngồi trên bô ông ta chảy máu như một con thú vậy. Giữa đêm chúng nó kéo ông ta dậy rồi đưa đi thẩm vấn. Tôi nghe được cả tiếng ông ta la hét, rồi lúc về ông ta không đi nổi nữa. Chúng nó đẩy ông ta vào buồng rồi ông ta đổ vật xuống sàn. Chúng tôi cố hồi sức cho ông ta hết mức. Sau bảy tuần tra tấn, một đêm chúng nó lôi ông ta ra bắn.”
“Ôi, thế ông ấy có phản đối sự bất công của Chúa không?”
“Không, ông ta vẫn cứ là một tín đồ cho đến hơi thở cuối cùng.”
Reb Berish nhăn mặt và xoa xoa trán. “Ý chí tự do được trao thì là ý chí tự do được trao. Nó có nghĩa là những kẻ bất lương có sức mạnh để làm những điều bất lương nếu muốn. Thế thì chính phủ này có phải là không được trao cho ý chí tự do không? Tên gangster nào cũng có thể giết người, trộm cắp, cho đến khi hắn ta bị bắt. Nhưng bị bắt rồi thì hắn ta sẽ phải đền tội.”
“Bọn Nazi có phải đền tội đâu, Reb Berish. Sau cuộc chiến tôi ở Munich. Bọn chúng ngồi tất cả trong một sảnh bia lớn, béo và đỏ như lợn, nốc bia rồi hát những bài ca của bọn Quốc xã giọng như điên dại. Chúng công khai khoe khoang chúng đã thiêu, tọng ga, chôn sống bao nhiêu người Do Thái, rồi chúng đã hiếp bao nhiêu đứa con gái Do Thái. Ông phải nghe giọng cười của chúng cơ. Nước Mỹ hồi ấy gửi cho chúng hàng tỷ đô la, rồi chúng đổ Bayerisch xuống cuống họng và ngấu nghiến Weisswurst. Bao tử chúng suýt vỡ tung vì sung sướng. Lúc tôi bước vào, nhận ra tôi là người Do Thái, chúng trở nên giống như thú. Chúng muốn kết liễu tôi tại chỗ.”
“Sao cậu lại đi vào một nơi như thế?”
“Tôi có một cô bạn gái người Đức ở đó. Tôi nhập lậu vàng rồi cô ta giấu đi. Chúng tôi làm, như họ nói đó, năm mươi năm mươi. Bên cạnh đó chúng tôi còn có việc khác nữa.”
“Pfui, cậu thì có tốt hơn gì họ.”
“Tôi làm gì được chứ? Bọn con gái Do Thái đều yếu đuối và cay nghiệt cả. Nằm với chúng nó, chúng nó chẳng làm gì ngoài cằn nhằn cho đến khi tai ông lòi ra hết. Chúng chỉ muốn cưới xin rồi ổn định cuộc sống. Nhưng không phải tôi. Với gái Đức, ông có cái ông muốn, chẳng phiền toái gì. Có một bao thuốc lá Mỹ ông muốn có góa phụ của Himmler cũng được.”
“Cậu làm ơn im lặng giúp tôi. Nếu cậu không để tôi yên bình mà cầu nguyện thì tốt nhất là cậu nên dọn ra khỏi nhà. Chúng ta không hợp cạ đâu.”
“Đừng quở tôi, Reb Berish. Theo tôi thấy thì ông có thể cầu nguyện từ sáng đến tối cũng được. Cứ tâng bốc Chúa đi, cứ bảo Hắn rằng Hắn vĩ đại thế nào, tốt đẹp thế nào, giàu lòng thương xót thế nào đi, rồi Hắn sẽ chuẩn bị một Hitler nữa cho ông. Chúng đang chuẩn bị rồi. Mỹ đang gửi máy bay cho chúng đấy. Rồi một ngày họ cũng gửi cả bom nguyên tử cho chúng thôi. Nhờ tiền thuế của ông, Reb Berish, mà nước Đức đang được tái vũ trang đấy. Đấy là sự thật.”
Reb Berish túm chặt râu. “Đấy đã phải toàn bộ sự thật đâu. Làm ơn, về phòng đi, cho tôi cầu nguyện tiếp.”
“Tiếp tục đi, tiếp tục đi. Ghét ai thì chỉ mọc sừng trên bụng mình thôi.”
*
Cầu nguyện xong, Reb Berish bắt đầu sục sạo quanh bếp và chuẩn bị bữa sáng. Thật ra, nó là cả bữa sáng và bữa trưa gộp lại, vì Reb Berish chỉ ăn mỗi ngày hai bữa. Ông sục sạo và thở dài. Bác sĩ đã cấm mọi thứ ông thích: muối, hạt tiêu, dưa cải Đức, củ cải, mù tạt, cá trích, dưa chua, thậm chí cả bơ và kem chua. Còn lại gì? Bánh mì nướng phết phô mai tươi và một tách trà lạt. Ông có thể ăn rau chân vịt và súp lơ, nhưng không thể nào quen được với thứ rau củ ấy. Ngay cả hoa quả ở Mỹ cũng không có vị xưa quê nhà. Thật ra là kể từ lúc vợ ông, bà Feige Malke, mất, mọi thứ đều mất đi hương vị và ý nghĩa: đi ngủ, sáng dậy, nhận séc từ Chú Sam, ngay cả các ngày Sabbath và ngày thánh. Reb Berish đã nhiều lần quyết tâm không nói chuyện với khách trọ của mình nữa, tên ba hoa đã kinh qua địa ngục mà vẫn chẳng tốt đẹp chút nào. Nhưng ngồi một mình bên bàn thì cũng thật khó khăn. Không biết vì sao lời lẽ thô lỗ của gã khách trọ càu nhàu này lại thế chỗ được cho hành, cải ngựa, tỏi, hay một cốc vodka. Chúng làm tim ông đập nhanh hơn, làm nóng máu trong mạch. Reb Berish gọi với ra, “Này, cậu Melnik, đến đây làm tách trà.”
Melnik lập tức xuất hiện ở cửa. Hắn đã chải tóc qua chỗ hói và vuốt sáp. Hắn mặc sơ mi hồng, cà vạt vàng chấm bi đen, quần kaki quân đội, và đôi giày quân đội mà người ta có thể mua được với giá rẻ. Ngón đeo nhẫn trái hắn đeo một chiếc nhẫn đính ruby, và quanh cổ tay là một chiếc đồng hồ dây vàng. Túi áo hắn có ba cây bút mực và hai cây bút chì đầu bạc. Tắm rửa xong trông hắn có vẻ trẻ hơn. Cặp bọng đã xẹp đi. Mắt trông sáng sủa hơn. Reb Berish nhìn hắn kinh ngạc.
“Chà, làm chút gì đi.”
“Làm chút gì chứ? Ông mà chuẩn bị một cái bàn thế này trong trại thì nó đúng là chút gì đấy. Tôi có mặt lúc chúng giết một người Do Thái vì trộm một củ khoai tây. Anh ta là họ hàng tôi. Trại tôi có một gã có cửa hàng. Ông có thể hình dung nó là cửa hàng thế nào đấy. Gã cất hàng hóa trong cái giường mà gã ngủ. Nếu bị bắt thì sẽ bị bắn ngay tức khắc. Mà bị bắn đã may. Có lẽ chúng sẽ tra tấn gã. Nhưng buôn là buôn thôi. Tôi đã thấy những người Do Thái tử đạo vì buôn. Trong ghetto cũng thế, mà ở Nga cũng vậy. Vì mấy cuộn chỉ và chục cây kim mà người ta bị xử tội chết. Trong trại thì một tay buôn như thế sẽ giữ mấy lá bắp cải, ít vỏ khoai tây, chút củ cải héo: đấy là nghề buôn của anh ta. Nhưng đói là một thứ nghiệt ngã lắm. Trong các trại ở Nga người ta ốm vì scorbut, vì thiếu vitamin. Người ta chết vì những bệnh tật này bất ngờ lắm. Tôi đã thấy một lần.”
“Từ đã, cậu Melnik. Tốt hơn là làm một lát bánh mì với pho mát này đi. Lấy chút anh đào.”
“Cảm ơn ông. Một đêm mùa đông tôi nằm trên giường, đâu đó trong một cái trại ở Kazakhstan, nói chuyện với gã hàng xóm trên giường đối diện. Lạnh đến nỗi nước trong xô đóng băng. Chúng tôi đắp hết giẻ lên mình. Ngoài trời tuyết giá khủng khiếp. Chúng tôi cũng đói, nhưng vẫn nói chuyện. Chúng tôi nói chuyện gì? Về vợ con, những người ở lại với người Đức, về những ngày tốt đẹp xưa cũ, xem chúng tôi sẽ làm gì khi hòa bình lập lại. Chúng tôi sẽ làm một việc thôi—ăn. Chúng tôi hình dung tất cả những món thịt quay rồi bánh mà mình sẽ ngốn, súp gà với cả mì sợi, lòng dồi, hành tây trong mỡ gà, bê chiên rồi cốt lết. Một lúc im lặng. Rồi tôi hỏi gã hàng xóm cái gì đó, nhưng gã không trả lời. Gã ngủ rồi à? tôi tự hỏi. Và tôi lắng nghe. Thường thì gã sẽ ngáy, vì gã có polyp trong mũi, nhưng lúc đấy gã im lặng một cách lạ thường. Tôi trượt xuống giường để ngó xem sao. Gã đã chết. Một giây trước gã còn nói chuyện, giây sau gã đã chết.”
“Kinh khủng, kinh khủng.”
“Ông than cái gì chứ. Đấy là loài người đấy, đỉnh cao của sự sáng tạo đấy. Lý thuyết của tôi là con người đều là những tên Nazi cả. Chúng ta có quyền gì mà giết bê để thịt? Kẻ nào có dao thì kẻ đấy sát hại. Đúng như Hitler đã tin: có sức mạnh là có quyền. Còn Chúa, Hắn chỉ là một tên Nazi để kết liễu mọi tên Nazi. Tên trùm Hitlerite. Hắn có nhiều quyền lực hơn bất cứ ai, nên là Hắn tra tấn tất cả. Ông thấy đấy, tôi đâu phải là một kẻ vô tín ngưỡng. Có Gehenna, có chứ. Sao người ta chỉ phải đau khổ trên trái đất thôi? Cả sau này họ cũng bị tra tấn. Chúa có trại Treblinka của riêng Hắn, với những quỷ dữ, yêu tinh, ác quỷ, thiên thần của cái chết. Họ thiêu đốt những kẻ tội đồ hoặc móc lưỡi hoặc vú để treo chúng lên. Mọi chi tiết đều có trong ‘Cây roi trừng phạt.’ Nhưng nào có thiên đường. Nói đến cái chết, tôi trở thành một kẻ dị giáo thực thụ.”
Reb Berish ngừng nhai. “Sao Đấng Sáng tạo ra thế giới này lại tàn nhẫn thế?”
“Sao lại không chứ? Hắn có một cây gậy lớn, thế là Hắn dùng thôi. Hắn cho chúng ta một bản Torah, mà chẳng ai tuân thủ được cả. Mỗi một thầy đạo nhỏ đều thêm vào những luật lệ mới, rồi phạm chỉ một trong những điều ấy thôi ông sẽ bị hóa kiếp thành rắn. Hội Kitô hữu thì cho là Chúa không thể cứu chuộc nhân loại cho đến khi Hắn để đứa con duy nhất của mình chết trên Thập tự giá. Bằng cách này hay cách khác, những gì Hắn đòi hỏi cũng chỉ là máu.”
“Thôi, tốt nhất là ăn gì đi. Nói dai chỉ thành nói dài nói dại.”
“Tôi đang ăn đây. Không thì tôi đang làm gì chứ? Chuyện duy nhất còn ở lại với tôi là ăn. Đàn bà ở nước Mỹ này thì đâu có tốt đẹp gì. Mà sự thật là làm gì còn đàn bà tốt ở đâu nữa. Thời của tôi vẫn còn có những người vợ chung thủy. Giờ thì giống loài ấy đã biến mất hoàn toàn. Ông mà thấy những gì tôi thấy, chòm râu bạc của ông sẽ lại đen nhánh cho xem.”
“Tôi không muốn nghe chuyện đó.”
“Tôi không nói về mấy cái trại. Ở đó thì đàn bà không làm khác đi được. Khi sợ hãi cho tính mạng mình thì người ta sẽ sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì. Tôi từng nghe một bà mẹ thuyết phục con gái hiến mình cho một gã Ukrainia hèn hạ chỉ vì gã có thể cho thêm hạt vào bát súp của cô ta. Cô ta làm thế thật, rồi khi bọn Nazi phát hiện ra thì cả ba người bọn họ đều bị giết. Những chuyện như thế không để lại nhiều ấn tượng lắm—chúng tôi rồi cũng quen. Nhưng tôi đã thấy những chuyện tệ hơn nhiều. Sau khi chúng tôi được tự do, chẳng còn ai bị ép buộc nữa, thế mà họ vẫn cứ đầm mình trong rác rưởi. Chúng tôi ngủ ba nhà chung một phòng. Ở một góc mụ này gian dâm với một lão nông dân, rồi góc kia em mụ ta cũng thế. Họ mất hết dây thần kinh xấu hổ. Họ bắt rận cho nhau rồi họ gian dâm với nhau. Có người thích làm thế dưới ánh nến.”
“Cậu có im lặng hay là không đây? Tôi cảnh cáo cậu lần cuối.”
“Ông sợ sự thật à?”
“Đấy đâu phải là sự thật. Tội lỗi cũng giống như là bọt. Khi rót bia vào cốc cậu tưởng là nó đầy, nhưng đến hai phần ba là bọt. Khi bọt tan rồi thì chỉ còn lại một phần ba cốc. Điều đấy cũng đúng với những tội lỗi kia. Chúng nổ tung như những quả bong bóng.”
“Nói hay lắm. Ông tự nghĩ ra à?”
“Tôi nghe một thầy đạo nói.”
“Nói hay, nhưng tôi nói mọi thứ đều bẩn thỉu. Chẳng có gì là thật ngoài bẩn thỉu. Thầy đạo của ông cũng bẩn thỉu. Đằng sau bộ râu và những bện tóc và bộ đồ tua rua kia là một gã đàn ông say mê đàn bà, và không kết hôn với một mụ đàn bà ưa nhìn thì hắn ta cũng chạy tới gái.”
“Vô lại! Tên phản bội đất nước Israel!”
“Vô lại, lai vộ. Tôi đâu có nói rằng mình là thánh. Chuyện gì làm được thì tôi làm. Thế thì ông muốn gì ở tôi? À này, sao ông không tái hôn đi? Ông vẫn còn khỏe mạnh kia mà. Tôi sẽ không để ông ở lại một mình với một mụ đàn bà dân Ngoại dù chỉ một phút.”
Reb Berish than vãn. Ông tì nắm đấm lên bàn. Tay kia ông nhặt vụn bánh khỏi bộ râu. “Vớ vẩn! Cậu nói những thứ ti tiện nhất về đàn bà, nhưng Feige Malke, mong cô ấy an nghỉ, là một người ngoan đạo. Nhìn một người đàn ông khác cũng không. Cô ấy chẳng khác gì mẹ tôi và bà tôi cả. Cậu thì biết gì hả thanh niên, về sự khiêm nhường của phụ nữ ngày xưa? Ở Warsaw quân giết người đã treo cổ một người phụ nữ quan trọng, vợ của một bậc trưởng lão, một con người thánh thiện. Trong lúc chúng lôi cô đến giá treo cổ, cô sợ váy sẽ bị kéo lên quá gối và làm cô tủi nhục. Nên cô ấy lấy kim băng ghim váy lại, qua chân mình, và chúng đã treo cổ cô như thế đấy.”
“Ông có ở đấy không?”
“Có những người khác. Dì tôi Deborah cũng trở thành góa phụ ở tuổi hai mươi ba, và dì không bao giờ kết hôn với ai nữa. Người ta mai mối dì với một người đàn ông vô cùng giàu có, nhưng dì bảo, ‘Tôi muốn giữ lòng trinh bạch để đến với Zorach của tôi trên thiên đường.’”
“Và ông tin là bà đang ở đó với ông ấy?”
“Đúng, tôi tin là thế.”
“Zorach không ở đấy đâu, bà ấy cũng thế. Họ chẳng còn lại gì ngoài một đống cát bụi cả. Bà ấy đau khổ vô ích rồi—Morris Melnik này nói thế đấy. Ở thị trấn tôi có một gã giàu có, Reb Zadok, một học giả. Gã chết, để lại cho người vợ góa một tài sản lớn. Đúng nửa năm sau, cô ta lấy một tên đồ tể đần độn tên là Chazkele Scab. Cô ta phải lòng hắn bên cái thớt chặt thịt.”
“Chà, mọi thứ đều có thể.”
“Mọi thứ đều thối nát.”
Morris Melnik im lặng. Hắn nhấc một cái thìa cà phê lên và cố đặt nó thăng bằng lên mép của một cái đĩa. Cái thìa lắc lư, nghiêng về phía tay cầm, và Morris Melnik nhanh chóng trút một chút muối lên lòng thìa để cho nó sự cân bằng. Hắn bặm môi dưới, một bên mắt mở to. Mắt còn lại hắn nhắm như thể hắn đang nháy mắt. Dường như hắn coi đó là một điềm báo, cái cách mà cái thìa rơi sẽ cho thấy mọi thứ thực sự đứng trên thế giới này như thế nào.
Reb Berish lắc đầu, như thể đồng tình với một sự thật cũ, thứ mà dù người ta có thể không chắc chắn, vẫn cứ làm người ta tuyệt vọng. Ông nhấc một lọn râu lên và xem xét nó, như thể để thuyết phục mình rằng nó đã bạc. Rồi ông nói, “Khi một con sâu bị chôn vùi trong rác thì làm sao nó biết là có những biệt thự, cung điện, khu vườn đây? Có câu ngạn ngữ: Rệp ở trong tường thì không đi ra đường. Cậu cứ bập bẹ về trái đất đi, nhưng còn có thiên đường với những vì sao, những chòm sao, những hiện thân. Có các thiên thần, thiên sứ, các cỗ xe thánh. So với họ, thế giới nhỏ bé chúng ta chỉ là một hạt bụi, có khi còn nhỏ hơn. Có những tia lửa thiêng, nhưng chúng bị ẩn giấu. Ngay cả trong bùn đôi khi cậu cũng thấy một viên kim cương. Giữa đống bẩn thỉu này vẫn còn có một Baal Shem, một Rabbi Elimelech, một Berditchever, một Kotzker. Họ ở đâu ra thế? Ông nội tôi Reb Chaim cũng chính là một vị thánh. Suốt năm mươi năm, ông nhịn ăn mỗi thứ Hai và thứ Năm. Nửa đêm nào ông cũng thức dậy để ca vãn sự tàn phá ngôi đền, hè cũng như đông. Ông cho đi đồng xu cuối cùng để làm từ thiện. Chính mắt tôi đã thấy.”
Reb Berish bắt đầu đấm ngực, nó được che phủ bằng một bộ đồ tua rua. Mặt ông càng đỏ hơn, râu ông run rẩy. Rồi ông nói, “Cậu bị lừa rồi, cậu Melnik. Tuy nhiên, cũng không thể đánh giá được một con người trong những thời khắc đau khổ của anh ta. Tôi đi nói lời cảm tạ đây.”
Ông lấy cốc, rót chút nước lên hai lòng bàn tay, rồi miết lên khăn trải bàn. Ông bắt đầu đọc to.
“Phúc đây cho Người, hỡi Chúa tể của chúng con, Vị vua của Vũ trụ, đấng dưỡng nuôi cả thế giới này bằng Lòng tốt của Người, bằng Ân điển của Người, bằng Từ bi của Người…”
Đúng lúc ấy, cái thìa nhỏ nghiêng vào trong đĩa. Cặp mắt vàng của Morris Melnik ngập cười. Hắn đứng dậy và bước ra cửa. Hắn tự nhủ, “Thôi thì ta đi xem bọn đàn bà đang làm gì vậy.”
Copyright © 2018 by Isaac Bashevis Singer | Nguyễn Huy Hoàng dịch.
Anh Hoàng làm em thích cái ông già Isaac Bashevis Singer này khủng khiếp :( Cảm ơn anh vì những bản dịch rất tuyệt vời ạ.