Isaac Bashevis Singer in his Miami flat, 1978 | Photo by Kathy Willens/AP
Isaac Bashevis Singer sinh năm 1904 ở một ngôi làng gần Warsaw, Ba Lan, và lớn lên trong khu Do Thái nói tiếng Yiddish của thành phố. Dù ban đầu cân nhắc trở thành thầy đạo như cha mình, Singer đã từ bỏ nghiên cứu tôn giáo trong những năm tuổi hai mươi để theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 1935, khi mối đe dọa của Đức Quốc xã ngày càng đáng ngại, Singer chuyển đến Mỹ. Tuy xuất bản nhiều tiểu thuyết, sách thiếu nhi, hồi ký, và tiểu luận, ông nổi tiếng nhất với tư cách nhà văn viết truyện ngắn. Ông được trao giải Sách Quốc gia Mỹ cho tác phẩm hư cấu năm 1974 và giải Nobel văn chương năm 1978, và qua đời ở Florida năm 1991.
Mọi người đều biết gã, mặc dù không ai ở Bałtów này nói chuyện với gã mà gã cũng không nói chuyện với ai bao giờ. Maryan Skiba từng thụ án tám năm tù vì giết bạn gái, Zocha, sau khi bắt gặp ả đang trên giường với một viên chức tòa thị chính. Maryan làm nghề đánh cá. Gã tiếp tục công việc cũ sau khi được thả khỏi nhà tù Lublin. Có một cái hồ gần Bałtów có cá chép, cá chó, và cá hanh. Chủ hồ là một nhà quý tộc cho ngư dân đến đây đánh cá có phí. Cả ngày thứ Năm đến trưa thứ Sáu, Maryan sẽ đứng trong chợ bên thùng cá tươi. Mặc cả với gã là điều không thể, bởi gần như gã đã ngừng nói. Gã lầm bầm giá rồi không ai moi được một lời nào nữa. Gã bán rẻ hơn những người bán cá khác một chút và thường là bán cá mình bắt được. Thỉnh thoảng cung nhiều hơn cầu, những người khác hạ giá nhưng Maryan thì không. Người ta nói gã thả những con chưa bán được lại xuống nước.
Gã được thừa hưởng một căn túp lều gần nghĩa trang Nhà thờ Công giáo và sống ở đó một mình. Xung quanh nhà gã dựng hàng rào để những người thợ may và thợ đóng giày cùng những người giúp việc và thợ khâu trên đường vào rừng vào những ngày thứ Bảy không nhìn được vào cửa sổ. Gã có một con chó, một con mèo, một con vẹt, và một con cá vàng nuôi trong bình thủy tinh. Trên tường cao hơn đầu gã có treo một cây súng săn, một thanh kiếm, và đầu một con lợn lòi.
Maryan Skiba, lùn và mập, có một cái đầu vuông đặt trên vai gần như không có cổ. Tóc vàng chanh chuốt lên giữa trán và dựng như lông lợn. Mặt gã đỏ lựng, mũi hếch, và cặp mắt vàng tròn xoe mà không có lông mày. Khi Maryan trở về Bałtów vị linh mục đã mời gã đến và cố gắng thuyết phục gã theo đạo, trích Kinh Thánh rằng Chúa nhân từ thương xót cho đàn chiên tội lỗi của Người. Nhưng Maryan nói, “Chẳng có Chúa nào cả.” Rồi từ chối nghe thêm.
Bà mai Tekla Kalupek, một bà góa, đã thử làm mối cho Maryan một cô gái mồ côi ở một tỉnh lân cận. Maryan nghe bà mai nói mà không chớp mắt. Rồi gã nói: “Tôi không muốn cưới.”
“Người nào mà chả phải lấy vợ.”
“Tôi không phải là người.”
“Thế cậu là gì?”
“Tôi là quân giết người.”
Kể từ đó mọi người đều tránh gã. Gã cũng tránh mọi người, thậm chí còn từ chối làm ăn với những ngư dân khác. Nếu họ đã quăng lưới mé bên này thì gã sẽ sang mé khác. Có người nói gã ăn nằm với một con quỷ cái. Có lần bọn trẻ con trèo lên rào nhìn trộm vào cửa sổ. Chúng thấy gã đang ngồi trên gốc cây vá lưới. Dường như gã chỉ ăn mỗi cá vì không thấy gã đến cửa hàng mua thức ăn bao giờ, mặc dù gã có trồng ít rau trong vườn.
Thú nuôi của gã được huấn luyện cho chơi cùng nhau và được dạy cho không làm hại lẫn nhau. Cậu bưu tá Dymniak thề rằng có lần đưa thư của một người tù cũ cho Maryan, cậu ta thấy con mèo đang cưỡi trên lưng con chó, còn đậu trên đuôi con mèo là một con chim nhỏ màu vàng. Chuyện này chỉ có một cách lý giải, ấy là Maryan là một thầy phù thủy.
Thật ra là Maryan Skiba đã học cách huấn luyện động vật từ một người luyện gấu tên là Stach, ngồi cùng buồng với gã nhiều năm. Stach đã hạ sát một cậu bé vì dám trộm một đồng xu ba kopeck bằng đồng của lão. Lão có thể bói bài như một người di gan. Một hôm có một con quạ bay vào qua những thanh chắn sắt và Stach dạy nó nói. Lão huênh hoang là lão biết đọc tâm trí và chỉ cần nghĩ thôi lão đã có thể bắt những con vật của mình làm theo lời lão. Lão bảo Maryan là lão tỉnh giấc giữa đêm và có một phần của lão, phần hồn, bước ra khỏi cơ thể. Nó rời nhà tù, bay qua những con phố Lublin, rồi bay qua những cánh đồng, dòng sông, cánh rừng, xa khỏi thành phố này. Lão bỏ lại sau lưng một cô nhân tình, Karola, một pháp sư biết ăn lửa, nuốt dao, và lăn thùng bằng lòng bàn chân. Trong những chuyến lang thang đêm ấy, phần hồn của Stach đã gặp Karola và làm tình với cô ta.
Giờ đã được tự do, Maryan cố thực hành những gì Stach đã dạy. Gã chưa bay đêm được, ngoại trừ trong những giấc mơ, nhưng cũng thành công đáng kể với sinh vật sống. Không cần nói lời nào gã ra lệnh cho con chó Burek sủa ba tiếng, và nó làm đúng như thế. Cũng bằng cách ấy gã bắt con mèo Duszka liếm tai con Burek. Rồi có một gánh xiếc lưu động đi qua Bałtów và Maryan đến xem mọi buổi biểu diễn. Gã mua hai con chim xanh của một nghệ sĩ, một cặp chim thuộc họ vẹt dẫu không to hơn chim sẻ là mấy. Maryan gọi con đực là Stach và con cái là Karola. Stach nói được vài từ, Maryan dạy cho nó mấy từ mới và thậm chí cả một bài hát ngắn. Gã làm tổ bằng cỏ khô và lá cho cặp chim rồi chẳng mấy chốc Karola bắt đầu đẻ trứng và nằm lên ấp. Gã bện cho đại gia đình này một cái lồng lớn.
Karola không tỏ ra ham học mấy, còn Stach là một cậu học trò siêng năng. Nó trở nên thân thiết với Maryan hơn vợ. Nó thường đứng trên đầu Maryan, liến thoắng, huýt sáo, kéo dái tai gã và thì thầm những bí mật khó nói với gã. Stach đậu trên ngón tay trỏ bên phải khi Maryan vá lưới. Maryan đặt nhiều niềm tin vào Stach đến mức trong suốt mùa hè, lúc đi bán cá trong chợ, gã cho nó đậu trên vai, và nó không bao giờ bay đi.
*
Sự gắn bó của Stach với Maryan càng ngày càng lớn. Nó đành hanh với những con đực khác, các con và các cháu nó. Nhỏ như thế mà nó cũng xô xát với con vẹt lớn hơn. Thấy Maryan nựng mèo hay vuốt ve con chó là nó không chịu được. Nó rít lên với cái tiếng khó mà tin là có thể phát ra từ một sinh vật nhỏ như thế. Lạ cái là những con chim khác, thậm chí cả con chó lẫn mèo đều sợ Stach và những tiếng rít chói tai của nó. Thường thì khi con Stach lên cơn, con vẹt già lại chui vào lồng và nghiêng đầu sang một bên, con mắt vàng của nó như hỏi: Sao nó lại như thế? Con mèo trốn dưới gầm giường. Con chó nép vào góc, đuôi cụp giữa hai chân. Thỉnh thoảng không hài lòng con Stach lại bay qua bay lại, đập vào tường, cửa sổ và la hét bằng tiếng chim. Nó thậm chí còn mổ những con vật khác. Một đêm tỉnh giấc rồi không ngủ lại được, Maryan có một ý nghĩ lạ lùng: linh hồn của Zocha đã nhập vào con Stach. Bao nhiêu năm qua Maryan vẫn chưa thể quên Zocha, tình yêu mà ả dành cho gã ở buổi đầu quan hệ, những lời ngọt ngào, và những tiếng van vỉ khi gã tiến đến với cây rìu trên tay lúc ả nằm trên giường với tên đốn mạt kia. Maryan bắt đầu tưởng tượng là gã nghe thấy giọng Zocha cất lên từ Stach. Tình cảm mà con chim thể hiện với gã không phải là tự nhiên. Zocha chắc hẳn đã tha thứ cho gã và trở về từ thế giới bên kia.
Thỉnh thoảng Maryan lại gọi Stach, Zocha. Nó nhanh chóng đáp lại cái tên ấy và lập tức nhại lại.
Ả Zocha trong con Stach quyết định loại bỏ mọi đối thủ. Burek, con chó, không biết vì lẽ gì mà đột nhiên bỏ ăn rồi gầm gừ với chủ. Nó đánh nhau với một con nhím rồi về nhà với một cái mõm đầy lông. Maryan tìm cách nhổ ra nhưng con chó chống cự và rú lên như dại. Nó sủa một tiếng cuối cùng rồi chết. Một buổi chiều con mèo trèo lên bậu cửa sổ và ngồi cuộn tròn giữa những chậu hoa. Lúc Maryan gọi nó ra ăn nó không phản ứng gì. Con mèo đã chết. Vài tuần sau con vẹt cũng chết. Một sáng tinh mơ Maryan nghe thấy tiếng rít trong lồng con Stach và gia đình của nó ngủ ban đêm. Cái lồng được che bằng cái khăn từng là của Zocha. Maryan băn khoăn. Đáng lẽ bọn chim phải rất yên ắng khi trời còn tối. Gã muốn đứng dậy để xem có chuyện gì nhưng đi làm mệt quá đầu gã lại rơi bịch xuống gối như một tảng đá. Lúc mặt trời mọc Maryan tỉnh dậy và nhận ra mọi thứ im ắng lạ thường. Gã ra khỏi chiếc giường xếp. Đàn chim đã chết, chỉ còn lại con Stach. Nó đang đậu trên một cái que và nhìn xuống những cái xác, mỏ dính đầy máu. Lông rải khắp nơi. Stach đã giết gia tộc của nó. Đó là sự báo thù của Zocha, Maryan lẩm bẩm. Rồi gã hét, “Quân giết người!”
Con Stach bay khỏi lồng, rít lên với giọng con người, va vào cửa sổ, giá kệ, xà nhà. Trong cơn bộc phát nó bị trật khớp cánh. Maryan cố nắn lại cho nó, nhưng con Stach đã thành què quặt.
Kể từ đó trở đi, Maryan không mang thêm con vật nào về nhà nữa. Gã nhốt con Stach trong lồng trong suốt tám tuần, giống tám năm mà gã phải ngồi tù. Sau khi được thả ra con chim không bao giờ như trước nữa. Cả ngày nó đứng trên nóc lồng với cái cánh què rũ xuống, cúi đầu, không cất lên một tiếng nào. Maryan nói chuyện với nó nhưng nó không trả lời. Gã cho tay lên mỏ con chim nhưng nó không mổ. Gã không thấy nó ăn, uống, hay rỉa lông nữa, như thể nó đang liên tục suy nghĩ về những vấn đề rút cạn sự sống đi.
Maryan cũng thay đổi theo. Trước giờ chưa ai thấy gã say rượu bao giờ. Giờ thì gã mua rượu ở quán mang về nhà uống. Đám ngư dân cười nhạo gã, kể chuyện gã bắt cá bằng những cái lưới thủng. Tevya, người gác đêm, thấy gã đi lại rồi nói chuyện một mình giữa đêm. Maryan đến chỗ người viết thuê của thị trấn, Kipa Pevzner, nhờ anh ta viết một lá thư gửi quản ngục nhà tù Lublin để hỏi xem Stach có còn đó không, và nếu được thả rồi thì có thể tìm lão ở đâu. Đang đọc dở thư thì Maryan nhổ một bãi nước bọt rồi bỏ đi.
Một thứ Năm Maryan không thấy đến chợ. Một ngư dân đến xem gã có chuyện gì. Cửa chớp đóng. Anh ta gõ cửa nhưng không ai ra mở. Anh ta phá cửa vào thì thấy Maryan treo mình trên móc trên sàn, một chiếc ghế đẩu lật ngửa dưới chân. Trên đầu Maryan, bám vào tóc gã, là con Stach—đã chết.
Isaac Bashevis Singer, “The Murderer,” trans. author, The Paris Review (No. 228, Spring 2019).
Copyright © by Isaac Bashevis Singer | Nguyễn Huy Hoàng dịch.