Photo by Ryszard Kornecki/PAP
Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Đã gần đến chín mươi, và vẫn còn một niềm hy vọng
Rằng tôi có thể bày tỏ, nói ra, thốt lên.
Nếu không phải là trước mọi người, thì hãy là trước Người,
Người đã nuôi tôi bằng mật ong và ngải cứu.
Tôi xấu hổ, vì phải tin Người đã bảo vệ tôi
Như thể tôi có công đức gì đặc biệt với Người.
Tôi cũng giống như những người trong gulag, buộc hai nhánh cây
Làm thánh giá, và cầu nguyện vào ban đêm trong trại.
Tôi đã cầu xin và Người đã hạ cố trả lời,
Để tôi có thể thấy nó vô lý thế nào.
Nhưng khi tôi cầu xin một phép lạ vì thương hại người khác,
Bầu trời và trái đất, như mọi khi, im lặng.
Nghi ngờ về mặt đạo đức vì đức tin của tôi với Người,
Tôi ngưỡng mộ sự cố chấp giản đơn của những kẻ không tin.
Tôi là loại nịnh thần nào trước mặt Bệ hạ,
Nếu tôi coi tôn giáo chỉ tốt cho những kẻ yếu đuối, như mình?
Kẻ ít bình thường nhất trong lớp của Cha Chomski,
Tôi đã dán mắt nhìn vào cái vòng xoáy của định mệnh.
Bây giờ thì Người đóng năm giác quan của tôi từ từ,
Và tôi, một ông già nằm trong bóng tối.
Giao cho cái thứ đã quấy nhiễu tôi đến nỗi
Tôi đã luôn chạy về phía trước, sáng tác những bài thơ.
Hãy giải phóng tôi khỏi tội lỗi, thực cũng như tưởng tượng.
Hãy đảm bảo tôi đã cần lao vì vinh quang của Người.
Vào giờ khắc đau đớn của tôi, hãy bên tôi với khổ nạn của Người,
Thứ không thể cứu thế giới khỏi nỗi đau.
Czesław Miłosz, “Prayer,” New and Collected Poems, 1931-2001, trans. Miłosz and Robert Hass (Ecco Press, 2001). This poem also appeared in The New Yorker (October 29, 2001 Issue).
Copyright © 2001 by Czesław Miłosz | Nguyễn Huy Hoàng dịch.