Czesław Miłosz, c. 1980 | Photo by Renata Gorczyńska
Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Ở đất nước ấy ông là một sĩ quan kỵ binh.
Ông qua lại với các gia tộc khá giả, thậm chí cả nữ bá tước P.
Ông có giày bóng loáng, bữa sáng được người hầu
Phục vụ, một cậu bé thông minh trong làng.
Gái. Nhiều gái hơn bất cứ đâu, đồn trú ấy rất lớn.
Một số tự lo, trong các phòng thuê,
Còn đâu thì dưới sự chăm sóc của một bà chủ lịch sự,
Người sẽ chào đón bạn và giới thiệu dưới một chao đèn hồng
Nàng Irma nóng bỏng, Katherine trắng sữa.
Một con ngựa nhảy dưới ông trong một cuộc duyệt binh, chuông ngân,
Vị giáo sĩ rảo bước trong đám rước, trẻ con đổ vụn hoa.
Cuộc sống ở đó như nó phải thế. Các mùa
Tô điểm đường phố bằng sự rạng rỡ, bằng đồng của lá, bằng sắc trắng.
Nông dân từ vùng lân cận, khoác áo da cừu
Thắt eo bằng len đa sắc, đi giày bện,
Dây quai ngoài xà cạp, bày bán các sản phẩm của họ.
Không gì hơn thế có thể được nói. Ông từng sống, một lần,
Trên các trang biên niên sử, dưới một ngọn gió khác,
Dưới một sự kết hợp khác của các vì sao, tuy trên cùng
Một trái đất mà, như họ nói, là một nữ thần.
Berkeley, 1988
Czesław Miłosz, “Incarnated,” Provinces: Poems 1987-1991, trans. author and Robert Hass (Ecco Press, 1991). This poem also appeared in The New Yorker (December 18, 1989 Issue).
Copyright © 1991 by Czesław Miłosz | Nguyễn Huy Hoàng dịch.