Nguyễn Huy Hoàng

the star is fading

“Linnaeus” – Czesław Miłosz

Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.

Linnaeus

Ông sinh năm 1707 lúc 1 giờ sáng ngày 23 tháng 5, khi mùa xuân còn đang nở đẹp, chim cu gáy vừa báo hiệu mùa hè đến. —từ tiểu sử Linnaeus

Lá non xanh. Một con chim cu. Tiếng vọng.
Bốn giờ sáng dậy chạy ra sông
Đang bốc khói, mịn dưới mặt trời mọc.
Một cánh cổng mở, ngựa chạy,
Én lượn, cá quẫy. Và ta chẳng bắt đầu với một sự phóng khoáng
Những lấp loáng và tiếng gọi, rượt đuổi, ríu rít?
Ta đã sống hằng ngày trong thánh ca, trong say sưa,
Không tìm lời cho nó, chỉ cảm thấy quá nhiều.

Ông là một trong số chúng ta, hạnh phúc trong thời thơ ấu.
Ông lên đường với cái hộp thực vật
Để thu thập và đặt tên, như Adam trong vườn,
Người đã không hoàn thành công việc, bị đày đi quá sớm.
Tự nhiên đã chờ đợi những cái tên, kể từ đó:
Trên những đồng cỏ gần Uppsala, trắng, lúc hoàng hôn,
Platanthera tỏa hương, ông gọi nó là biofolia.
Turdus hót trong bụi vân sam, nhưng nó có musicus?
Nó vẫn là một đề tài tranh cãi.
Và nhà thực vật mãi mãi cười một con chim nhỏ
Tíu tít Troglodytes troglodytes L.

Ông sắp xếp ba giới vào một hệ thống:
Animale. Vegetale. Minerale.
Ông chia: lớp, bộ, chi, loài.
“Hỡi Đức Giê-hô-va, có biết bao tác phẩm của Người!”
Ông hát với một tác giả thánh vịnh. Bậc, số, sự đối xứng
Ở mọi nơi, được ngợi ca với một cây clavecin
Và violin, ngâm trong thể lục bộ Latin.

Kể từ đó chúng ta có ngôn ngữ của sự kinh ngạc: các atlas.
Một bông tulip với phần bên trong bí ẩn, tăm tối,
Phong quỳ của vùng Lapland, một bông súng, một bông diên vĩ
Thể hiện một cách trung thành bằng một cây cọ tỉ mỉ.
Và một con chim trong tán lá, đỏ nâu, xanh thẫm,
Không bao giờ bay đi, được giữ lại
Trên giấy với một dòng chữ đôi trang trí.

Chúng tôi biết ơn ông. Những buổi tối, ở nhà,
Chúng tôi ngắm những màu sắc dưới một ngọn đèn dầu
Có chao đèn xanh. Và cái gì ở đó, trên trái đất,
Là không thể đạt đến, rất lắm, đang đi qua, biến mất,
Ở đây ta có thể yêu, được cứu khỏi mất mát.

Cầu cho nhà của ông, ngôi nhà vườn, khu vườn
Nơi ông trồng các loài cây tứ xứ
Được ban phước với sự bình yên và tươi tốt.
Đến Trung Quốc và Nhật Bản, Mỹ, Úc,
Những thuyền buồm chở môn đồ của ông đi
Và họ mang những món quà về: hạt giống và hình vẽ.
Và tôi, kẻ lang thang, kẻ sưu tập các hình thức hữu hình
Trong thời đại cay đắng bị tước đi sự hòa hợp,
Ghen tị với họ, dâng lên lòng thành kính của tôi—
Một bài thơ bắt chước bài tụng ca cổ điển.

Berkeley, 1990

Czesław Miłosz, “Linnaeus,” Provinces: Poems 1987-1991, trans. author and Robert Hass (Ecco, 1991).

Copyright © 1991 by Czesław Miłosz | Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Advertisement

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

Information

This entry was posted on February 1, 2021 by in Thơ and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

%d bloggers like this: