Czesław Miłosz (1911–2004) là nhà văn, nhà thơ, và dịch giả người Ba Lan. Ông được trao giải văn chương quốc tế Neustadt năm 1978 và giải Nobel văn chương năm 1980.
Ẩn sau nụ cười của tình anh em,
Hắn khinh bỉ kẻ đọc báo, nạn nhân của biện chứng của quyền lực.
Nói: “Dân chủ,” với một cái nháy mắt.
Ghét những lạc thú sinh lý của con người,
Đầy ký ức về những người cũng ăn, uống, làm tình,
Nhưng chẳng bao lâu cổ họng họ bị cắt.
Đề xuất các điệu nhảy và tiệc vườn để xoa dịu công chúng phẫn nộ.
Hô: “Văn hóa!,” “Nghệ thuật!” nhưng thực ra nghĩ đến các trò chơi xiếc.
Mệt rã rời,
Lầm bầm trong giấc ngủ hoặc mê: “Chúa ơi, ôi Chúa ơi!”
Tự sánh mình với một kẻ La Mã, nơi sự sùng bái Mithras trộn lẫn với sự sùng bái Giêsu.
Vẫn bám lấy những mê tín xưa, đôi khi tin mình bị quỷ ám.
Trách quá khứ, nhưng sợ rằng, xóa bỏ nó,
Hắn sẽ không còn chỗ tựa đầu.
Thích chơi bài hoặc cờ vua nhất, để giữ những bí mật của riêng mình.
Đặt một tay lên tác phẩm của Marx, nhưng ở nhà đọc Kinh Thánh.
Mắt mỉa mai nhìn các đám rước rời khỏi các nhà thờ đổ nát.
Hậu cảnh: một thành phố màu thịt ngựa điêu tàn.
Trong tay: kỷ vật của một đứa trẻ “phát xít” bị giết trong cuộc Nổi dậy.
Kraków, 1945
Czesław Miłosz, “Mid-Twentieth-Century Portrait,” trans. Jan Darowski in Miłosz, The Collected Poems, 1931-1987 (Ecco Press, 1988).
Copyright © 1953 by Czesław Miłosz | Nguyễn Huy Hoàng dịch.