Charles Simic (1938–) là nhà thơ người Mỹ gốc Serbia. Ông được trao giải Pulitzer cho thơ năm 1990, giải thơ Griffin quốc tế năm 2005, giải Wallace Stevens năm 2007, huân chương Robert Frost năm 2011, và giải văn chương quốc tế Zbigniew Herbert năm 2014, và được bổ nhiệm làm Poet Laureate của Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2007–2008. Ông biên tập thơ cho tờ Paris Review từ năm 2003 đến năm 2010 và là giáo sư hưu trí ngành văn học Anh tại Đại học New Hampshire.
Tôi bỏ lại những phần mình ở mọi nơi
Như những người lơ đễnh bỏ lại
Những chiếc găng và những chiếc ô
Màu buồn bã vì phân đi quá nhiều vận rủi.
Tôi ngủ trên băng ghế công viên.
Nó giống như Nghệ thuật Ai Cập Cổ.
Tôi không muốn cựa mình.
Tôi bắt cái bóng dài của tôi lên chuyến tàu buổi tối.
“Chúng ta cho đứa trẻ cái chết khi cho nó một con búp bê,”
Người đàn bà đã đọc Djuna Barnes nói.
Chúng tôi thì thầm suốt đêm. Nàng đã đến châu Phi tăm tối nhất.
Nàng có nhiều câu chuyện để kể về rừng rậm.
Tôi đã đến New York để tìm việc.
Trời mưa như thuở Noah.
Tôi đã đứng ở nhiều ô cửa của thành phố vĩ đại ấy.
Có lần tôi hỏi một người mặc tuxedo xin một điếu thuốc.
Hắn nhìn tôi sợ hãi và bước ra ngoài trời mưa.
Bởi “lẽ tự nhiên con người khao khát hạnh phúc,”
Theo Thánh Tôma Aquinô,
Người đã đưa ra bằng chứng không thể chối cãi về sự tồn tại và mục đích của Chúa,
Tôi chất xe tải ở Trung tâm May mặc.
Một gã da đen và tôi ăn trộm một chiếc váy đỏ phụ nữ.
Nó làm bằng lụa; nó lung linh.
Một đêm u ám với tất cả nhiệt huyết yêu thương bùng cháy,
Chúng tôi mang nó xuống đại lộ vắng dài,
Mỗi người cầm một tay áo.
Cái nóng không thể chịu được khiến nhiều mặt người kinh hãi
Phải ra khỏi nơi ẩn náu.
Trong Phòng đọc Thư viện Công cộng
Chỉ có một chiếc quạt trần gần như không nhúc nhích.
Tôi có những chuyến du hành của Herman Melville làm gối.
Tôi ở trên một con tàu ma với những cánh buồm giương trọn.
Tôi chẳng thể thấy đất liền.
Biển và những quái vật của nó chẳng thể làm tôi mát.
Tôi đi theo một y tá trông thánh thiện vào văn phòng bác sĩ.
Chúng tôi nhích qua những người bị băng bó mắt và tai.
“Tôi là một triết gia thời trung cổ lưu vong,”
Tôi giải thích với bà chủ nhà đêm hôm đó.
Và, quả thật, trông tôi chẳng còn giống chính mình.
Tôi đeo kính với một vết nứt toác hình mạng nhện trên một bên mắt.
Tôi ở rạp chiếu phim cả ngày.
Một người phụ nữ trên màn ảnh cứ bước qua bước lại
Trong thành phố bị ném bom. Nàng đi bốt quân đội.
Chân nàng dài và trần trụi. Bất kể nàng ở đâu, trời lạnh.
Nàng quay lưng vào tôi, nhưng tôi đã phải lòng nàng.
Tôi ngỡ sẽ tìm thấy ở lối ra châu Âu thời chiến.
Trời còn chẳng có tuyết! Bất cứ ai tôi gặp
Đều đeo một phần số phận của tôi như mặt nạ lễ hội.
“Tôi là Bartleby gã cạo giấy,” tôi nói với gã bồi bàn người Ý.
“Tôi cũng thế,” hắn trả lời.
Và tôi chẳng thấy gì ngoài những chiếc gạt tàn đầy tràn
Mà những con ruồi mặt người đang mải xem xét.
Charles Simic, “St. Thomas Aquinas,” The Book of Gods and Devils (Houghton Mifflin Harcourt, 1990). This poem was included in The Best American Poetry 1988.
Copyright © 1987 by Charles Simic | Nguyễn Huy Hoàng dịch.