Seamus Heaney sinh năm 1939 ở hạt Derry, Bắc Ireland. Ông xuất bản tập thơ đầu năm 1966, theo sau là các tập thơ, phê bình, và dịch phẩm đưa ông đến vị thế là một trong những nhà thơ hàng đầu của thế hệ mình. Ông được trao giải E. M. Forster năm 1975, giải Nobel văn chương năm 1995, hai giải Whitbread vào các năm 1996 và 1999, giải Irish PEN năm 2005, giải T. S. Eliot năm 2006, giải David Cohen năm 2009, giải Forward cho tập thơ xuất sắc nhất năm 2010, và giải công nhận trọn đời của giải thơ Griffin năm 2012. Ông qua đời ở Dublin năm 2013.
cho Hughie O’Donoghue
Ở một thời tay trần
và gang,
cái máy xay thịt kẹp,
cái máy bơm nước hai bánh đà,
nó cắm gót vào giữa các bồn gỗ
và những máng tạp,
nóng hơn nhiệt độ cơ thể
vào mùa hè, lạnh vào mùa đông
như áo giáp của mùa đông,
một tấm giáp ngực ngực thùng
đứng gác
trên bốn ống đồng gồng.
“Đây là cách Chúa nhìn sự sống,”
nó nói, “từ mầm chồi đến máy xắt,”
trong khi chiếc tay cầm quay
và những đầu cải củ được thả xuống cho
các lưỡi dao bên trong ứ nước đớp,
“Đây là vòng đời cải củ,”
trong khi nó nhả đống thái thô,
từng xô từng xô lấp lánh.
Seamus Heaney, “The Turnip-Snedder,” District and Circle (Faber and Faber, 2006). This poem was first published in The New Yorker (March 20, 2006 Issue).
Copyright © 2006 by Seamus Heaney | Nguyễn Huy Hoàng dịch.