Zbigniew Herbert (1924–1998) là nhà thơ người Ba Lan. Ông được trao nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải nhà nước Áo cho văn chương châu Âu năm 1965, giải Herder năm 1973, và giải Jerusalem năm 1991. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu luận, một số vở kịch, và văn xuôi.
1
Tôi không bắt
kịp chuyến xe cuối
tôi ở lại một thị trấn
không phải là một thị trấn
không có tờ báo sáng
không có tờ báo tối
không có
nhà tù
đồng hồ
nước
tôi tận hưởng
những ngày nghỉ tuyệt vời
bên ngoài thời gian
tôi đi những cuốc đi dài
qua đại lộ của những ngôi nhà cháy
đại lộ của đường
kính vỡ
gạo
tôi có thể viết một khảo luận
về sự biến đổi đột ngột
của đời sống thành khảo cổ học
2
có một sự im lặng khổng lồ
pháo binh ở ngoại ô
đã mắc nghẹn sự can đảm của chính mình
thỉnh thoảng
chỉ có thể nghe thấy
tiếng chuông của những bức tường đổ
và tiếng sấm nhẹ
của tấm kim loại đung đưa trong không khí
có một sự im lặng khổng lồ
trước đêm của những kẻ săn mồi
thỉnh thoảng
trên trời xuất hiện
một chiếc máy bay phi lý
nó rải truyền đơn
kêu gọi đầu hàng
tôi sẵn sàng làm
nhưng chẳng có ai để đầu hàng
3
bây giờ tôi sống
ở khách sạn sang nhất
người khuân vác chết
vẫn trực trong phòng
từ một đống gạch vụn
tôi đi thẳng vào
tầng hai
tới căn phòng
người tình cũ
của ông cựu cảnh sát trưởng
tôi ngủ trên những tờ báo
tôi che mình bằng một tấm áp phích
tuyên bố chiến thắng cuối cùng
trong quầy rượu vẫn còn
thuốc cho sự cô đơn
những chai chất lỏng màu vàng
và một nhãn tượng trưng
– Johnnie
ngả mũ chóp
đi vội về phía Tây
tôi chẳng oán giận ai
chuyện tôi đã bị bỏ rơi
tôi chỉ thiếu
may mắn
và bàn tay phải
trên trần
bóng đèn tròn
trông như một cái sọ ngược
tôi đợi những kẻ chiến thắng
tôi uống cho những người ngã xuống
tôi uống cho những người bỏ trốn
tôi vượt qua
những ý nghĩ tồi tệ
ngay cả linh cảm về cái chết
cũng bỏ rơi tôi
Zbigniew Herbert, “The Abandoned,” Report from the Besieged City and Other Poems, trans. John and Bogdana Carpenter (Ecco Press, 1985).
Copyright © 1983 by Zbigniew Herbert | Nguyễn Huy Hoàng dịch.