Photo by Tom Sewell
William Stanley Merwin (1927–2019) là nhà thơ người Mỹ. Với hơn 50 tập thơ, dịch thuật, và văn xuôi, ông được trao hai giải Pulitzer cho thơ vào các năm 1971 và 2009, giải PEN cho thơ dịch năm 1969, giải Bollingen năm 1979, giải Tanning và giải thơ Lenore Marshall năm 1994, giải thơ Ruth Lilly năm 1998, giải thành tựu trọn đời của giải văn chương Lannan năm 2004, giải Sách Quốc gia Mỹ cho thơ năm 2005, giải Rebekah Johnson Bobbitt năm 2006, giải văn chương quốc tế Zbigniew Herbert năm 2013, và giải dịch thuật Harold Morton Landon năm 2014. Ông được bổ nhiệm, cùng Rita Dove và Louise Glück, làm Cố vấn Đặc biệt về Thơ cho Thư viện Quốc hội Mỹ nhiệm kỳ 1999–2000, và làm Poet Laureate nhiệm kỳ 2010–2011. W. S. Merwin được xem là một trong những người có đóng góp đáng kể nhất cho nền thơ ca Mỹ trong cả thế kỷ 20 và 21.
Mi sẽ không bao giờ tin được
nó sẽ đến thế này
một buổi sáng tĩnh lặng
khi trước khi mi để ý
những loài chim
đã gần như biến mất
dù năm này qua năm khác
sự tập dượt của nó
chắc hẳn đã làm ngạc nhiên
bậc cha mẹ lặng người của mi
và những vị tiên tổ vô danh
từ lâu đã gom thành bụi
và mặc dù ngay cả những đứa trẻ
đã được dạy cách nói
cái từ héo hắt[1]
không chúng ta biết mi từng
mát mẻ và vô số
cái tầm nhìn tươi sáng trên tất cả
những ngọn đồi xanh
dợn trên những ngọn sóng bất tận
qua những ngày trong hoa
giờ mi giống như sương
luồn lách qua giữa mi
xám trong rạng đông ớn lạnh
lũ chuột đồng lùng sục đất khô
quanh chùm rễ của mi
mong tìm được thứ gì
trước mùa đông đến
và khi bầu khí trắng xao động
mi thì thầm với chính mình
mà không mong đợi gì
hay cần gì phải biết
18 tháng 9, 2001
W. S. Merwin, “To the Grass of Autumn,” Present Company (Copper Canyon Press, 2005). This poem was first published in The New Yorker (December 3, 2001 Issue).
Copyright © 2001 by W. S. Merwin | Nguyễn Huy Hoàng dịch.
[1] Isaiah 40:8 (King James Version): The grass withereth, the flower fadeth: but the word of our God shall stand for ever (Cỏ úa, hoa tàn: nhưng lời của Chúa sẽ còn mãi đời đời).