Yehuda Amichai sinh năm 1924 ở Würzburg, Đức và cùng gia đình di cư về Palestine năm 1936. Là tác giả của nhiều tập thơ tiếng Hebrew, hai tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, ông được trao giải nhà nước Israel cho thơ năm 1982 và trở thành viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa Kỳ năm 1986. Ông sống Jerusalem cho đến khi qua đời năm 2000.
1.
Cả cuộc đời tôi đã chơi cờ với chính mình và những người khác
và những ngày của đời tôi là những quân cờ, tốt và xấu—tôi và tôi,
tôi và hắn, tình yêu và chiến tranh, hy vọng và tuyệt vọng,
quân đen và quân trắng. Giờ thì chúng lẫn hết vào nhau,
không màu sắc, và bàn cờ không còn những ô vuông,
nó là một mặt phẳng hòa quyện vào đêm và ngày.
Ván cờ lặng lẽ và không kết thúc, không có người chiến thắng,
không có người thất bại, những quy tắc rỗng
leng keng trong gió. Tôi lắng nghe. Và tôi im lặng.
Trong đời tôi và trong cái chết của tôi.
2.
Ngày còn nhỏ tôi nói lời cầu nguyện trước khi ngủ
hằng đêm. Tôi vẫn nhớ câu thơ
“Vị thiên thần giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm.”
Tôi không còn cầu nguyện sau đó, trên giường,
trên những ngọn đồi, trong cuộc chiến, đêm và ngày,
nhưng vị thiên thần cứu giải vẫn ở bên cạnh tôi và trở thành
một thiên thần yêu thương. Người sẽ biến thành Tử thần
khi giờ khắc đến, nhưng vẫn luôn là vị thiên thần
giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm.
3.
Tôi luôn phải thăm lại những cồn cát của Ashdod
nơi tôi có một chút can đảm trong trận chiến đó, cuộc chiến đó,
anh hùng mềm trong cát mềm. Chút mảnh vụn lòng anh hùng của tôi tôi đã phung phí,
đó là lý do tôi luôn thăm lại những cồn cát của Ashdod. Giờ nó đã trở thành
những cồn cát du lịch—những người bơi, những đứa trẻ chơi đùa,
những lá cờ cảnh báo, một nhân viên cứu hộ. Những ngày ấy
chẳng có cờ cảnh báo, chẳng cứu hộ, chẳng có ai để cứu lấy chúng tôi.
5.
Tôi luôn phải nhớ lại những trò chọc lét của thời thơ ấu,
những trò chọc lét cô dì tôi thường làm khi nó là
một hành động ân sủng, ân sủng thực sự. Cho niềm vui sống.
Kể từ đó chọc lét đã trở thành một việc nghiêm túc, không còn là tiếng cười
khúc khích của một đứa trẻ: một cái cù gần với nỗi đau, da non lành mối bất hòa
giữa thiện và ác, một cái cù của dục vọng hoang dại và sự phục sinh.
Đôi khi tôi đưa tay lên tận đỉnh đầu để gãi như một tên lửa
phóng vào hàng năm trời ánh sáng của không gian—đầu tôi ở rìa thiên hà.
Đôi khi vào buổi sáng tôi nhẹ nhàng dụi mắt, xuống mũi,
xuống công việc xoa dịu, cứu chuộc của ký ức.
Cái chuyển động ấy gọi lên những linh hồn từ cái túi ma thuật
của cơ thể, những thế hệ của chọc lét. Và hơn hết là,
cái cảm giác khi cặp đùi tôi trở nên thờ ơ và đi vào giấc ngủ,
rồi đột nhiên giật mình tỉnh giấc với một triệu mũi kim râm ran.
Bởi vậy một tôn giáo mới bắt đầu sau thời đại của sự lãnh đạm:
bỗng một cái cù mới, một đức tin mới. Amen selah.
6.
Tôi biết những sợi chỉ buộc tôi với niềm vui mỏng manh như thế nào
nhưng từ những sợi chỉ mỏng tôi đã dệt nên đồ bền chắc,
một loại áo giáp mềm, những sợi dọc và ngang của niềm vui
để giúp tôi che đậy sự trần trụi và bảo vệ tôi.
Nhưng đôi khi tôi thấy đời tôi không xứng đáng
với làn da của cơ thể bao bọc quanh nó, không cả với
những cái móng tay mà tôi bám vào cuộc đời mình.
Tôi giống như một người đàn ông giơ cổ tay lên
để thoáng thấy Thời gian, ngay cả khi không đeo đồng hồ.
Và đôi khi tiếng róc rách của những dòng nước cuối
tháo khỏi bồn tắm
là bài hát của chim dạ oanh vang lên trong tai tôi.
7.
Thế giới được lấp đầy bằng những nhớ và quên
như biển và đất cằn. Đôi khi ký ức
là mảnh đất vững mà chúng ta đứng,
và đôi khi ký ức là biển bao trùm lên mọi thứ
như trận Hồng thủy. Và quên là mảnh đất cằn cứu giữ, như Ararat.
8.
Tôi muốn bộ não tôi không ở trong đầu
mà ở trong một bộ phận khác—chân, bụng,
mông, một tiểu não nhỏ dữ dội ở rốn.
Hoặc thậm chí ở ngoài cơ thể—hãy để nó là một khoảng trống
xúc lên trong cát, nơi những con lừa, chó, và trẻ con
cuộn tròn, lăn lộn, và ré lên với niềm thích thú.
Bằng đời tôi, tôi thề: đó là cái tôi muốn trong đời tôi, bằng đời tôi!
9.
Và mỗi người là một con đập giữa quá khứ và tương lai.
Khi họ chết, đập vỡ, quá khứ tràn vào tương lai,
và không có trước hoặc sau. Mọi thời gian trở thành một
như Chúa của chúng ta: Thời gian của chúng ta là Một.
Phúc cho ký ức của con đập.
10.
Sự sống được gọi là sự sống như gió tây được gọi là
gió tây, dẫu nó thổi về đằng đông.
Như cái chết được gọi là cái chết, dẫu nó thổi về sự sống.
Trong nghĩa trang chúng ta nhớ người sống, và ngoài đó chúng ta nhớ
người chết. Như quá khứ dẫn đến tương lai
dẫu gọi là quá khứ, như tôi dẫn đến em và em đến tôi trong tình yêu
dẫu rằng tôi được gọi bằng tên tôi và em bằng tên em.
Như mùa xuân mang đến mùa hạ, như mùa hạ nằm ngả vào thu.
Như suy nghĩ của tôi sẽ kéo đến cuối đời. Đó là biểu ngữ của Thiên Chúa của tôi.
11.
Khi một người nào chết, người ta nói “Anh ta đã về với tiên tổ.”
Khi anh ta còn sống, tiên tổ cũng đã về với anh ta,
mỗi tế bào của cơ thể và tâm hồn anh ta là một đại biểu
của hàng ngàn tiên tổ kể từ lúc khởi đầu của thời gian.
12.
Giờ mỗi ngày tôi nghe những vòng tròn của đời tôi khép lại,
tiếng tách của những cái khóa, như những nụ hôn
của hòa giải và tình yêu. Và chúng mang đến một nhịp điệu
cho phiên bản cuối của cuộc đời tôi. Những thứ mất đã rất lâu
nay tìm được chỗ, như những quả bi-a, mỗi quả vào một lỗ.
Những khế ước và tiên tri được hoàn thành, tiên tri đúng và sai.
Tôi gặp những nắp đậy bị mất của nồi và chảo vẫn không che đậy,
tôi thấy những mảnh ghép vừa vặn, như một khế ước đất sét cổ
vỡ thành hai mảnh, không bằng nhau nhưng khớp vào nhau.
Như một bức tranh khảm, một bộ ghép hình, trẻ con tìm
những mảnh còn thiếu. Khi trò chơi kết thúc,
bức tranh sẽ hoàn chỉnh. Hoàn thành.
13.
Tôi, cầu tôi nghỉ trong yên bình—tôi, người còn sống, nói,
Cầu tôi nghỉ trong yên bình suốt phần đời còn lại.
Tôi muốn sự yên bình ngay khi tôi còn sống.
Tôi không muốn chờ như người đàn ông ngoan đạo ước có một chân
của chiếc ngai vàng trên Thiên đường, tôi muốn có một chiếc ghế bốn chân
ở ngay đây, một chiếc ghế gỗ trơn. Tôi muốn phần còn lại của yên bình bây giờ.
Tôi đã sống đời tôi trong đủ mọi cuộc chiến: những trận chiến ngoài
và trong, cận chiến, mặt đối mặt, những gương mặt luôn luôn
là của tôi, gương-mặt-người-tình, gương-mặt-đối-thủ.
Những cuộc chiến với những vũ khí cũ—gậy và đá, những cây rìu cùn, lời lẽ,
mũi dao cùn xé toạc, tình yêu và thù hận,
và những cuộc chiến với những vũ khí mới—súng máy, tên lửa,
lời lẽ, những quả mìn nổ tung, tình yêu và thù hận.
Tôi không muốn hoàn thành lời tiên tri của cha mẹ rằng cuộc đời là chiến trận.
Tôi muốn sự yên bình với toàn bộ cơ thể tôi và toàn bộ tâm hồn tôi.
Hãy đặt tôi trong yên bình.
14.
Khi tôi chết, tôi chỉ muốn phụ nữ xử lý tôi trong Chevra Kadisha
và làm gì thân xác tôi như họ muốn: làm sạch đôi tai tôi khỏi những lời
cuối cùng tôi nghe, lau môi tôi khỏi những lời cuối cùng tôi nói,
xóa mắt tôi khỏi những cảnh cuối cùng tôi thấy, vuốt đôi mày lo lắng
và khoanh tay tôi trước ngực như tay áo sau khi là.
Hãy để họ xức thân tôi bằng dầu thơm để tôn tôi làm vị Vua của Cái chết
trong một ngày, và sắp trong xương chậu tôi như trong một bát quả
đôi tinh hoàn và dương vật, rốn và mớ lông quăn—như một bức tĩnh vật văn hoa
từ một thế kỷ trước, một bức tranh tĩnh vật trên nền nhung đen,
và rồi bằng chiếc lông vũ, chọc lỗ miệng và lỗ hậu tôi để xem
tôi có còn sống. Hãy để họ khóc và cười lần lượt
và xoa bóp cho tôi lần cuối, từ tay họ qua tôi
đến toàn bộ thế giới cho đến Ngày Tàn.
Và một người sẽ hát Chúa đầy Lòng Thương xót,
sẽ hát trong giọng ngọt ngào Chúa Tử cung Vẹn đầy,
để nhắc nhở Chúa rằng lòng thương xót sinh ra từ tử cung, lòng thương đích thực,
tử cung đích thực, tình yêu đích thực, ân sủng đích thực. Bằng đời tôi, tôi thề,
đó là cái tôi muốn trong cái chết của tôi, trong sự sống của tôi.
Yehuda Amichai, “In My Life, on My Life,” trans. Chana Bloch and Chana Kronfeld in The Poetry of Yehuda Amichai, ed. Robert Alter (Farrar, Straus and Giroux, 2015).
Copyright © 2015 by Hana Amichai | Nguyễn Huy Hoàng dịch.