W. H. Auden sinh năm 1907 ở York và theo học Văn học Anh tại Christ Church, Đại học Oxford, nơi ông kết bạn với các nhà thơ Cecil Day-Lewis, Louis MacNeice, và Stephen Spender. Ông đến Mỹ năm 1939 và trở thành công dân Hoa Kỳ năm 1946. Auden được trao giải Pulitzer cho thơ năm 1948, giải Bollingen năm 1953, và giải Sách Quốc gia Mỹ cho thơ năm 1956, và từ năm 1956 đến năm 1961 là Giáo sư về Thơ tại Đại học Oxford. Ông qua đời ở Vienna năm 1973.
Bà nhìn qua vai ông
Tìm vườn nho và những cây ô liu,
Những thành phố cẩm thạch thịnh trị
Và tàu thuyền trên những vùng biển dữ,
Nhưng trên tấm kim loại sáng loáng
Bàn tay ông thay vào đó đã đặt
Vào một sự hoang dã nhân tạo
Và một bầu trời như chì nặng.
Một đồng bằng không có gì nổi bật, trống và nâu,
Không lá cỏ, không dấu hiệu của khu người ở,
Không gì để ăn và không đâu để ngồi xuống,
Nhưng, tập hợp trên sự trống trải của nó, có
Một đoàn người không thể nào hiểu thấu,
Triệu con mắt, triệu chiếc bốt xếp hàng,
Không nét mặt, đợi chờ một chỉ dấu.
Từ thinh không một giọng nói không gương mặt
Chứng tỏ bằng thống kê một lý tưởng là đúng đắn
Bằng giọng khô và đều như mặt đất cằn,
Không ai được cổ vũ và không gì được bàn bạc;
Từng cột một trong một đám mây bụi
Họ diễu đi chịu đựng một niềm tin
Với logic đưa họ đến đau buồn, nơi khác.
Bà nhìn qua vai ông
Tìm lòng thành nghi lễ,
Những con bê trắng đeo hoa,
Rượu mừng và vật hiến tế,
Nhưng trên tấm kim loại sáng loáng
Nơi phải là ban thờ, đáng lẽ
Bà nhìn thấy bằng lửa rèn chập chờn,
Một cảnh tượng khác hoàn toàn.
Dây kẽm gai rào quanh một địa điểm ngẫu hứng
Nơi quan chức ngả ngớn (một kẻ thì đùa cợt)
Và lính đổ mồ hôi bởi vì ngày nóng nực:
Một đám đông những dân thường đứng đắn
Nhìn từ xa không cử động không nói
Trong khi ba bóng hình nhợt nhạt bị dẫn lên và trói
Vào ba chiếc cột dựng trong sân thẳng đứng.
Đám thảo dân và vương giả của thế giới này, tất cả
Những gì mang sức nặng và luôn luôn nặng như nhau
Nằm trong tay của những kẻ khác; họ bé nhỏ
Và không thể mong sự giúp đỡ và không có sự giúp đỡ:
Cái kẻ thù của họ muốn đã xong, sự ô nhục của họ
Là những gì kẻ đồi bại mong; họ đã đánh mất cả phẩm giá
Và chết như những con người trước khi thân họ ngã.
Bà nhìn qua vai ông
Tìm những vận động viên thi đấu,
Đàn bà và đàn ông trong một điệu múa
Đưa những cánh tay chân ngọt ngào
Mau, mau, theo điệu nhạc
Nhưng trên tấm khiên sáng,
Bàn tay ông không đặt sàn nhảy nào
Mà là một cánh đồng ngập cỏ.
Một thằng bé rách rưới, vu vơ và một mình,
Lai vãng xung quanh bãi trống; một con chim
Bay đến chốn an toàn khỏi hòn đá cậu ta ném trúng phóc:
Gái bị hiếp, hai kẻ trai đâm một kẻ thứ ba,
Đó là những tiên đề với cậu, kẻ chưa bao giờ nghe
Về một thế giới nào mà lời hứa được làm tròn,
Hay người ta có thể khóc bởi một người khác khóc.
Người rèn giáp môi mỏng,
Hephaestos, chân cà nhắc bước đi,
Thetis với đôi bầu ngực bóng
Gào lên trong nỗi tuyệt vọng
Với cái mà vị thần kia đã rèn
Để thỏa mãn con trai bà, chàng Achilles
Mạnh mẽ tàn sát người với trái tim sắt,
Kẻ sẽ không sống được bao lâu.
W. H. Auden, “The Shield of Achilles,” The Shield of Achilles (Faber and Faber, 1955).
Copyright © 1952 by W. H. Auden | Nguyễn Huy Hoàng dịch.