Nguyễn Huy Hoàng

the star is fading

“Cuốn Norton Introduction to Literature, ấn bản thứ ba (1981) của ba tôi” – Hai-Dang Phan

Hai-Dang Phan sinh năm 1980 ở Kon Tum và theo gia đình tị nạn sang Mỹ từ năm hai tuổi. Anh lớn lên ở Wisconsin và hoàn thành chương trình tiến sĩ tại Đại học Wisconsin-Madison, với luận án về văn chương và sự hòa giải sau Chiến tranh Việt Nam. Thơ của anh đã được đăng trên nhiều tạp chí như The New YorkerNew England Review, và PoetryReenactments (Những tái hiện, Sarabande Books xuất bản năm 2019) là tập thơ đầu của anh, gồm các bài do chính anh viết và một số bản dịch từ tiếng Việt của các tác giả Chế Lan Viên, Trụ Vũ, Nguyễn Quốc Chánh, và Phan Nhiên Hạo. Hai-Dang Phan hiện là phó giáo sư ngành văn học Anh tại Grinnell College. Anh cũng là dịch giả cho tập thơ gần đây nhất của Phan Nhiên Hạo, Paper Bells (The Song Cave, 2020).

Cuốn Norton Introduction to Literature, ấn bản thứ ba (1981) của ba tôi

Một số từ làm ông bối rối: cannibals, puzzles, sob,
bosom, martyr, deteriorate, shake, astonishes, vexed, ode
Những từ này ông tra cứu và hăm hở chú thích bằng tiếng Việt.
Ravish có nghĩa là cướp đoạt; shits là như khi bạn phải đi ỉa;
mourners là những người mà chúng ta nói là đầy buồn rầu.
Với “even the like precurse of feared events” hãy nghĩ về báo trước.

Các trang giấy mờ, mỏng được kết mạng bằng các chú thích bên lề của ông,
những bóng ma than chì của một bàn tay sống, và các ghi chú thường
nghe giống hệt như ông: “All depend on how look at thing,” ông ghi
sau “I first surmised the Horses’ Heads / Were toward Eternity—”
Chữ viết nghiêng của ông nói chung là nhỏ, nhưng chắc và rõ.
Bút chì của ông là một chiếc Số 2, cái bút nhớ ưa thích màu xanh bắc cực.

Tôi có thể thấy ba tôi tập dùng các công cụ phân tích văn học.
Ông xác định “bước ngoặt” trong truyện “The Short and Happy Life
of Francis Macomber”; gạch chân phép so sánh trong “Both the old man
and the child stared ahead as if they were awaiting an apparition.”
Ba tôi, trong lúc đọc, tiếp tục chú ý các đoạn có liên quan
và ghi lại những phản ứng quan trọng, nhưng dần dần vạch ra

các ý tưởng của mình bằng tiếng Anh, rũ bỏ những từ vựng tiếng Việt.
1981 cũng là năm mà chúng tôi vượt biển và đến Mỹ,
nơi ba tôi học lớp Intro Lit (“cho vui”), Comp Sci (“cho công việc”).
“Stopping by Woods on a Snowy Evening,” ông thì thầm
gì đó về “dark side of life how awful it can be”
trong lúc tôi bắt đầu lần theo sự im lặng và dấu hiệu về một nguồn gốc lạnh.

Đọc “Bells for John Whiteside’s Daughter” của Ransom,
một bài thơ về “young girl’s death,” như ba tôi ghi chú,
làm thế nào mà ông đã không thể “vexed at her brown study / 
Lying so primly propped,” bởi vì ông chưa bao giờ được dự chính thức
(bây giờ tôi mới nhận ra điều này) lễ tang của con gái mình.
Lấy làm ngạc nhiên về là ý nghĩa của to be astonished.

Tên chị là Đông Xưa, Ancient Winter, nhưng ở nhà chị là Bebe.
“There was such speed in her little body, / And such lightness
in her footfall, / It is no wonder her brown study / Astonishes
us all.” Trong di ảnh của chị treo ở nhà ba má tôi
chị mãi mãi mười bốn tháng tuổi và nhìn chằm chằm về tương lai.
Trong “trại cải tạo” ba tôi đã phải tin rằng chị còn sống

bởi má tôi trong các chuyến thăm đã “took arms against her shadow.”
Có phải ký ức về những ngày ấy đã quét qua ông như một cơn bão lá
từ những trang giấy của một mùa thu bị lãng quên? Lạc trong lề,
tôi đang đọc theo cách mà tôi không khuyến khích sinh viên của mình đọc.
Nhưng đây là “how we deal with death,” cây bút đen của ông trả lời.
Giả sử có một lý do cho tất cả mọi thứ, một dấu hoa thị màu xanh lục chỉ dẫn.

Rồi giữa các trang 896–897, mở đến bài “Sunday Morning” của Stevens,
tôi nhặt ra một mẩu báo nhỏ, bằng một con tem, một danh sách cũ
từ 404-Cơ hội Tuyển dụng ở Tiểu bang Minnesota, và đọc:
Để tìm các cơ hội việc làm hiện tại hãy gọi (612) 297-3180. Trả lời 24/24h.
Khi tôi quay số, giọng một người phụ nữ tự động ở đầu dây bên kia
cho tôi biết tôi đã gọi đến một số máy không hoạt động.

Hai-Dang Phan, “My Father’s Norton Introduction to Literature, Third Edition (1981),” Reenactments: Poems and Translations (Sarabande Books, 2019). This poem was first published in the November 2015 issue of Poetry and was included in The Best American Poetry 2016.

Copyright © 2019 by Hai-Dang Phan | Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Bản dịch này đăng lần đầu, cùng sáu bài thơ khác của Hai-Dang Phan, trên litviet.org.

Advertisement

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

Information

This entry was posted on May 27, 2020 by in Thơ and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

%d bloggers like this: