Joseph Brodsky sinh năm 1940 ở Leningrad và định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1972 sau khi bị chính quyền Liên Xô trục xuất. Ông được trao giải phê bình của Hiệp hội Nhà Phê bình Sách Quốc gia Mỹ năm 1986 và giải Nobel văn chương năm 1987, sau đó được bổ nhiệm làm Poet Laureate của Hoa Kỳ từ năm 1991 đến năm 1992. Ông qua đời ở New York City năm 1996.
Đàn ong không bay đi, và kỵ sĩ cũng không phi nước
đại. Trong quán Gianicolo, đám bạn già đang thưởng thức
những ngày son trẻ, và tảng đá tan, làm mát cái động cơ rệu rã
biết ơn vì được nếm hai lần dòng nước trong ngạn ngữ.
Đã tám năm trôi qua. Các cuộc chiến bùng lên và âm ỉ,
các gia đình tan vỡ, đám cặn bã nhe răng đã không còn trẻ;
những chiếc máy bay rụng và phát thanh viên lầm bầm “Lạy Chúa.”
Đồ lanh vẫn có thể giặt được nhưng các vết nhăn nhúa
sẽ không nhường bàn tay dịu dàng nhất. Mặt trời trên một Rome
mùa đông đang chen vào làm khói tím bằng những tia nắng trần.
Mùi tro lá cháy, và đài phun nước lấp lánh như một tấm mề đay lắc lư
trao cho cú bắn bâng quơ của một khẩu đại bác lúc giữa trưa.
Những tảng đá được dùng ở khắp nơi để giam cầm ký ức.
Nhưng nảy sinh thì mới khó hơn là biến mất trong một viễn cảnh
chạy ra khỏi thành phố để đi thẳng vào trong năm tháng
trong cuộc theo đuổi thời gian thuần, không tương lai và hạnh phúc.
Cuộc sống mà không có chúng ta, em yêu, là có thể tưởng tượng.
Nó tồn tại như những đàn ong, kỵ sĩ, cột, khung cảnh, quán, khách quen,
và những đám mây trên chiến trường này nơi từng bức tượng đứng
khải hoàn, với vóc dáng của nó, trên một cơ hội chạm vào em.
Joseph Brodsky, “Porta San Pancrazio,” trans. author, So Forth (Farrar, Straus and Giroux, 1996). This poem was first published in The New Yorker (March 14, 1994 Issue).
Copyright © 1989 by Joseph Brodsky | Nguyễn Huy Hoàng dịch.