Joseph Brodsky sinh năm 1940 ở Leningrad và định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1972 sau khi bị chính quyền Liên Xô trục xuất. Ông được trao giải phê bình của Hiệp hội Nhà Phê bình Sách Quốc gia Mỹ năm 1986 và giải Nobel văn chương năm 1987, sau đó được bổ nhiệm làm Poet Laureate của Hoa Kỳ từ năm 1991 đến năm 1992. Ông qua đời ở New York City năm 1996.
I
Hoàng đế bước vào, ăn vận như sao Hỏa;
huy chương trên người kêu xủng xoảng, lắc lư.
Bộ Tổng tham mưu trưng rất nhiều ngôi sao, trông nó
giống như Dải Ngân hà.
Hoàng đế nói, “Ta đoán các ngươi đoán
được mục đích của buổi mít tinh.”
Các tướng lĩnh đứng dậy và khạc, “Chắc chắn,
Bệ hạ! Để phát động chiến tranh!”
“Chính xác,” Hoàng đế nói. “Kẻ thù của chúng ta rất
mạnh mẽ, thô lỗ và cục cằn.
Song chúng ta sẽ bơm hắn thuốc xổ đến mức
bồn cầu hắn xả nước sẽ không cần!”
“Điều động pháo binh! Điều động tàu chiến!
Ôi con ngựa tuyệt đẹp của ta đâu?
Hãy tiến lên! Cầu Chúa, người mà dân tộc ta thờ mến
sẽ tham gia không kích dẫn đầu!”
“Tuân lệnh!” các chiến binh thét. “Việc chúng tôi
là chém giết, đổ nát, hư không.
Chúng tôi hứa, thưa Bệ hạ: chúng tôi sẽ kiếm
một Carthage và hủy diệt đến cùng.”
“Tốt!” Hoàng đế thét. “Cái một người chinh phục
thì phụ thuộc vào các học giả, bút lông.
Hãy để các chàng trai Ngân khố phát sốt
vì phải trả quân lương.”
Các tướng rền: “Rất chí lý, thưa Bệ hạ.
Tiền chúng ta là tiền của những quả chuông ngân.
Cầu cho mặt trời trên đế chế không bao giờ lặn
chỉ mọc lên cho Bệ hạ của chúng thần!”
Và tuốc bin gầm, kim loại loảng xoảng,
tay chuôi kiếm, họ tiến bước diễu hành,
trong khi những cánh hoa dịu dàng cụp xuống
sẵn sàng đợi và héo úa, thu mình.
II
Không Armageddon, không động đất đãi bôi
hay một cuộc thử nghiệm bom H.
Không, đó chỉ là Quân đội Hoàng gia
đang cố làm hết sức.
Bầu trời sụp đổ, trái đất há hốc,
đại dương chỉ đơn giản là sôi.
“Sự sống,” Hoàng đế nói, “chỉ là bắt chước
tranh dầu trừu tượng mà thôi.”
“Chiến tranh,” ngài tiếp, “như một viện bảo tàng.”
Và các quan đồng tình ư ử:
“Bệ hạ, chúng ta sẽ cứ vẽ như thế tràng giang,
vì Nghệ thuật ngang bằng Lịch sử!”
“Không bao giờ Lịch sử nói rất tiếc,
nó cũng không nói, Nếu-thì.
Để vào Lịch sử, một lãnh thổ trước hết
phải tới đau buồn mà đi.”
“Không bao giờ Lịch sử nói rất tiếc,”
những người nhập ngũ với vào.
“Ai cần hãy nhớ khi ta có mi sẽ chết?
Lịch sử hẳn biết khi nào.”
“A, sai chúng quay cái chân trời tốt cũ
thành thẳng đứng, trừ buồm,”
Hoàng đế nói thêm, đôi mắt tinh như cú
trên những chi tiết tí hon.
“Tuân lệnh,” các tướng lĩnh thét. “Quỷ tha –
Thảo nào có gì khang khác.
Hãy nhấn nút và xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Đây chắc hẳn là một kiệt tác.”
Và hỡi ôi, thế giới trở nên đảo lộn,
nói cách khác, tan tành.
“Chúa ơi,” Hoàng đế nói. “Cái đó thật là dữ dội,
nhưng, trong bối cảnh, công bằng.”
III
Giờ thì chẳng còn gì xung quanh để tranh luận:
không khuyết điểm, không ưu.
“Ê, kẻ thù!” Hoàng đế hét. “Mi vẫn
còn đó chứ?” – Không tiếng vọng quay đầu.
Giờ thì nó chỉ là thuần không gian, vắng núi,
đồng bằng và những thứ vu vơ.
“Hãy,” Hoàng đế nói, “hát lên những từ ngữ
của quốc ca và giơ cao lá cờ.”
Lá cờ cất lên, không hơn hai hoặc ba con
dơi buổi tối đến chứng kiến.
“Chiến thắng thường khiến con người ta cô đơn,”
Hoàng đế nói, rồi nói tiếp:
“Hãy dựng nên một tượng đài, bởi con ngựa,
trắng như một bông dạ lan hương,
của ta đã già và trông, như ta nhìn, khá lạ;
và khắc trên cột hoa cương:
‘Lỗ đít quý giá của kẻ thù thì chặt.
Song chúng ta đã đứng vững, kiên cường.’
Các nhà phê bình có thể nói chúng ta đã nổi đóa.
Song chúng ta có tất cả trên phim.
Kẻo những đứa trẻ đột biến của bà vẫn khóc,
người mẹ có thể hát chúng khúc ca xưa.
Tương lai như vậy chẳng có một mục đích,
ngoài bấm nút phát lại và tua.”
Lúc hoàng hôn, mọi thứ trông khá đẹp.
Nhiệt độ giảm xuống một vài.
Thế giới nằm bất động, như một hiệp ước
với không chữ ký của ai.
Những ngôi sao đã bắt đầu lấp lánh, xa xôi và nhộn.
Con mắt du hành khá xa.
Người ta cảm thấy có đôi chút sầu muộn.
Nhưng còn một điếu xì gà.
Joseph Brodsky, “A Tale,” So Forth (Farrar, Straus and Giroux, 1996).
Copyright © 1995 by Joseph Brodsky | Nguyễn Huy Hoàng dịch.