Seamus Heaney sinh năm 1939 ở hạt Derry, Bắc Ireland. Ông xuất bản tập thơ đầu năm 1966, theo sau là các tập thơ, phê bình, và dịch phẩm đưa ông đến vị thế là một trong những nhà thơ hàng đầu của thế hệ mình. Ông được trao giải E. M. Forster năm 1975, giải Nobel văn chương năm 1995, hai giải Whitbread vào các năm 1996 và 1999, giải Irish PEN năm 2005, giải T. S. Eliot năm 2006, giải David Cohen năm 2009, giải Forward cho tập thơ xuất sắc nhất năm 2010, và giải công nhận trọn đời của giải thơ Griffin năm 2012. Ông qua đời ở Dublin năm 2013.
tưởng niệm Czesław Miłosz
1. “Như mọi người khác…”
“Như mọi người khác, tôi cúi đầu
trong khi linh mục truyền phép bánh và rượu,
ngước mắt lên chiếc bánh giơ và chiếc chén giơ,
tin (bất kể nó nghĩa là gì) một sự biến đổi đã xảy ra.
Tôi đến lan can ban thờ và nhận phép huyền nhiệm
trên lưỡi, trở về chỗ, mau chóng nhắm mắt, làm
một hành động tạ ơn, mở mắt, và cảm nhận
thời gian bắt đầu trở lại.
Chưa bao giờ có một cảnh
tôi giải quyết nó với chính mình hay người khác.
Sự mất đi xảy ra ngoài sân khấu. Thế nhưng tôi không thể
chối bỏ những từ như ‘tạ ơn’ hay ‘Thánh thể’
hay ‘bánh hiệp thông.’ Chúng có một sự rung chuyển
và sức hút bất diệt, như nước giếng dưới đáy sâu.”
2. Brancardier
Mi đi, một kẻ hành hương, trong thời đại hơi nước.
Derry, Dún Laoghaire, Dover, Rue du Bac
(Những lời cầu nguyện cho Chân phước M. M. Alacoque,
Cho bà được tuyên thánh.) Rồi thời gian rảnh
Tối hôm đó ở Paris, từ đó đến Lourdes,
Học cách tin tưởng vào sự học của mi trên đường:
“Non, pas de vin, merci. Mais oui, du thé,”
Và người phục vụ quay đi, tin vào lời mi nói.
Hotel de quoi ở Rue de quoi? Tất cả đã không còn.
Nhưng không phải tên gọi của mi, brancardier,
Và chiếc băng đeo có màu, khi mi nhấc và đặt
Người bệnh lên cáng trong khuôn viên của ngôi đền
Hoặc trên nền bê tông ảm đạm để chờ họ tắm.
Và luôn luôn từ “chữa trị” treo trong không khí
Như đôi nạng treo trên gần ban thờ trong hốc.
Và luôn luôn những lời cầu nguyện thành tiếng hoặc thì thầm.
Những thợ mỏ người Bỉ mặc quần yếm xanh
Diễu hành trong đám rước, cầm đèn đồng.
Các Hội tương tế với khăn chéo, cột, và cờ hiệu
Di chuyển lên trên hàng. Khăn mantilla, tràng hạt
Và tiếng acoustic unam sanctam catholicam
Của cái vương cung thánh đường ngầm—có lẽ
Không biến mất nhưng không còn ý nghĩa ban đầu,
Sự củng cố vững chắc của Mầu nhiệm
Thánh Thể, Eleusis của thời đại của nó.
Tôi mang về một lít đựng trong bình nhựa
Trên dây đeo vai (très chic) nước vùng Lourdes.
Một bình thủy tinh nhỏ hình vòm chứa hình ảnh
Của Đức Trinh nữ trên Bernadette chân trần—
Lắc nó và chất lỏng trong suốt sẽ tung đầy bông tuyết
Như những chiếc lông vũ thiên thần trắng trong hốc.
Và (cho công việc khiêng cáng) một chứng chỉ.
3. Nhạc cưa
Hỏi: Anh có từ bỏ thế giới không?
Đáp: Thưa, tôi từ bỏ.
Barrie Cooke đã bắt đầu vẽ các “tia sáng thần,”
Những luồng sáng khiến ánh sáng của thiên đường
Trông như những tấm lụa gấp nếp hay rayon kéo căng
Trong cửa sổ tiệm vải ngày xưa. Các đường khí, các lớp,
Và day màu. Rây cột. Nhưng bảng màu thực tế của anh
Thì luôn lầy và lem, như thể một cơn mưa rào
Tạo nên các vũng nước trên nền sàng sảy của linh hồn.
Điều nó làm tôi nhớ đến là một đêm ẩm ướt
Ở Belfast, gần Giáng sinh, khi một người đàn ông
Chơi nhạc trên cây cưa ở lối vào đọng nước
Trước một cửa hàng phố, dưới ánh sáng từ các vật
Trưng bày bóng bảy và chuông xe tuyết nháy đèn neon,
Bắt đầu kéo cây vĩ của ông qua lưỡi cưa.
Lưỡi thép không gỉ đã được bôi dầu hoặc vaseline,
Cái cưa dựng ngược, và bàn tay trái của ông
Nhấn nhẹ hoặc nặng tùy theo giai điệu yêu cầu
Nốt dựa lung lay hay tiếng ai oán của Banshee.
Mưa phun vào chiếc áo dài xơ xác của ông,
Vào chiếc mũ nơi đồng xu thi thoảng được ném
Phơi trên tấm lót ẩm, những hạt mưa lấp lánh
Như những răng cưa bôi trơn mà cây vĩ của ông ve vuốt
Và kéo qua lại, không hề hấn. “Nghệ thuật sơn dầu—
Những nét quệch quạc cố định trên vải, là một thứ bé mọn
So với những gì kêu gào đòi được thể hiện,”
Nhà thơ nói, người nằm ngày ánh sáng thần hôm nay
Trong quan tài ở Kraków, đã ra khỏi thế giới này
Như tiếng nhạc không có gì là vượt thế của lưỡi cưa
Ông có thể đã nghe thấy ở Vilnius hay Warsaw
Và sẽ không từ bỏ, bất kể bé mọn.
Seamus Heaney, “Out of This World,” District and Circle (Faber and Faber, 2006).
Copyright © 2004 by Seamus Heaney | Nguyễn Huy Hoàng dịch.