Zbigniew Herbert (1924–1998) là nhà thơ người Ba Lan. Ông được trao nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải nhà nước Áo cho văn chương châu Âu năm 1965, giải Herder năm 1973, và giải Jerusalem năm 1991. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu luận, một số vở kịch, và văn xuôi.
Họ đã hiểu Livius như thế nào ông nội tôi ông cố tôi
chắc hẳn họ đọc ông ở trường
vào thời điểm không quá hợp trong năm
khi một hạt dẻ đứng ở cửa sổ – những chân nến rực rỡ của hoa –
và tất cả suy nghĩ của ông nội và ông cố chạy hổn hển đến chỗ Mizzi
người hát trong vườn khoe khe ngực và đôi chân nữ thần đến gối
hay Gabi từ Nhà hát Opera Vienna với những lọn tóc xoăn thiên thần
Gabi với cái mũi hếch và Mozart trong cổ họng
hoặc cuối cùng đến Józia tốt bụng nơi ẩn náu của lũ tuyệt vọng
không nhan sắc tài năng hay những đòi hỏi lớn lao
và như thế họ đọc Livius – ôi mùa của những chùm hoa
trong mùi phấn buồn chán băng phiến để lau sàn nhà
dưới một bức chân dung hoàng đế
bởi lúc đó có một vị hoàng đế
và một đế chế như tất cả các đế chế
dường như là vĩnh cửu
Đọc lịch sử Thành phố họ đầu hàng trước ảo tưởng
rằng họ là người La Mã hoặc hậu duệ của người La Mã
những đứa con của những kẻ bị chinh phục lại bị hóa nô lệ
chắc chắn người thầy môn Latin đã nhúng tay vào
với cấp bậc ủy viên hội đồng
một tập hợp những đức hạnh cổ xưa dưới áo khoác sờn
đi theo Livius ông tiêm nhiễm vào học trò sự khinh miệt đám đông
cuộc nổi dậy của người dân – res tam foeda – làm họ ghê tởm
trong khi tất cả các cuộc chinh phục dường như là đúng
chúng đơn giản cho thấy chiến thắng của kẻ giỏi hơn mạnh hơn
bởi vậy họ đau đớn trước thất bại hồ Trasimene
họ tự hào với sự tót chúng của Scipio
họ đón tin cái chết của Hannibal với sự nhẹ nhõm thật lòng
quá dễ quá dễ họ để mình bị dẫn
qua những thành lũy của các mệnh đề phụ
những cấu trúc phức tạp được cai quản bởi phân từ
những dòng sông cuồn cuộn thuật diễn thuyết
những cạm bẫy của cú pháp
– vào chiến trận
vì một lý tưởng không phải của họ
Chỉ có cha tôi và tôi sau ông
là đọc Livius chống lại Livius
xem xét cặn kẽ những gì dưới bức bích họa
vì lẽ đó trong chúng tôi không vọng lại cử chỉ kịch nghệ của Scaevola
tiếng hô của các bách phu trưởng những đám rước khải hoàn
trong khi chúng tôi dễ xúc động trước thất bại
của người Samnite người Gaul hay người Etrusca
chúng tôi đếm tên nhiều dân tộc mà người La Mã đã biến thành cát bụi
bị chôn vùi mà không có vinh quang những người đối với Livius
không xứng đáng với ngay cả một nếp nhăn của phong cách
những người Hirpini Apulea Lucania Osuna
và cả những cư dân của Tarentum Metapontis Locri
Cha tôi biết rõ và tôi cũng biết
rằng một ngày ở nơi biên giới xa xôi
mà không có lấy một dấu hiệu trên trời
ở Pannonia Sarajevo hay Trebizond
ở một thành phố bên biển lạnh
hay trong một thung lũng ở Panshir
một đám cháy địa phương sẽ bùng lên
và đế chế sẽ suy tàn
Zbigniew Herbert, “Transformations of Livy,” Elegy for the Departure and Other Poems, trans. Bogdana and John Carpenter (Ecco Press, 1999).
Copyright © 1990 by Zbigniew Herbert | Nguyễn Huy Hoàng dịch.