Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"

J. M. Coetzee về Zbigniew Herbert

J. M. Coetzee sinh năm 1940 ở Cape Town. Ông tốt nghiệp đại học ngành toán ở quê nhà và làm việc ở Anh một thời gian trước khi sang Mỹ, nơi ông lấy bằng tiến sĩ ngành văn học Anh tại Đại học Texas ở Austin năm 1968. Xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay năm 1974, ông được trao hai giải Man Booker vào các năm 1983 và 1999, giải Jerusalem năm 1987, và giải Nobel văn chương năm 2003. Ông định cư ở Adelaide từ năm 2002 và trở thành công dân Úc năm 2006.

Về Zbigniew Herbert

Zbigniew Herbert sinh ngày 29 tháng 10 năm 1924 ở Lwów, Ba Lan (nay là Lviv, Ukraina). Trong những năm chiến tranh, ông học văn học Ba Lan tại trường đại học ngầm mang tên Jan Kazimierz ở Lwów. Sau chiến tranh, ông chuyển đến Kraków để học luật và kinh tế; ông cũng theo các khóa triết học và lịch sử nghệ thuật. Ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan, nhưng từ bỏ cuộc sống bao cấp thoải mái mà nó mang lại khi, sau khi Stalin lên nắm quyền năm 1948, nghệ thuật bị áp đặt một chiếc áo trói của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, và các khuynh hướng phi Marxist bị thanh trừng khỏi các khoa nhân văn của các trường đại học. Tập thơ đầu của ông, Dây ánh sáng, chỉ xuất hiện sau khi sự tan băng năm 1956 đã nới lỏng kiểm duyệt.

Sự kiềm tỏa hoạt động chính trị mà Liên Xô áp đặt lên các nước vệ tinh, với những sự kiểm soát chặt chẽ trong tư tưởng và biểu đạt, không phải là trở ngại duy nhất đối với sự tái sinh của đời sống văn hóa tự chủ ở Ba Lan. Với lịch sử lâu dài và không thể chối bỏ của chủ nghĩa bài Do Thái ở Ba Lan, cuộc thảm sát người Do Thái diễn ra trên đất Ba Lan trong chiến tranh đã đặt ra những câu hỏi về tính liên quan đạo đức cấp thiết nhất đối với tương lai Ba Lan.

“Làm thơ sau Auschwitz là man rợ” (Nach Auschwitz ein Gedicht zu schreiben, ist barbarisch), Theodor Adorno viết năm 1949 – và ở đây chúng ta nên nhớ rằng Auschwitz nằm ở vùng Silesia Ba Lan. Không thể phủ nhận sức mạnh của tuyên bố của Adorno, nhưng chính xác thì nó có nghĩa gì? Rằng Auschwitz đã đặt dấu chấm hết cho những tuyên ngôn đạo đức của thơ ca, và cho nền văn hóa thượng lưu châu Âu nói chung? Rằng một nghệ thuật xứng tầm với nhiệm vụ nói thay cho những người đã chết ở Auschwitz là không thể hình dung được?

Herbert, người mà lập trường đạo đức và cảm năng đối với châu Âu và quá khứ của nó đã phát triển trong sự im lặng bị áp đặt của những năm tuổi hai mươi, đáp lại thách thức của Adorno trong một bài thơ đã được đưa rộng rãi vào các tuyển tập, “Năm người.” Phải có thơ, ngay cả trong những thời buổi đen tối nhất, ông nói, vì chúng ta không thể sống mà không có nó. Không cách nào nước cờ cơ bản này chiếu tướng được Adorno – và quả thật Herbert sau này đã nhận ra cái nhu cầu đào sâu và phức tạp hóa sự biện hộ của ông đối với thơ – nhưng nó đã mở ra một không gian mà nhà thơ có thể phản kháng lại phán quyết của lịch sử.

Cho đến mấy năm ngoài ba mươi Herbert vẫn sống một cuộc sống bên lề, không có bất kỳ phần thưởng nào mà một người có học vấn và tài năng như ông có thể mong đợi. Sau năm 1956, danh tiếng ngày càng lớn của ông đã mở ra các cơ hội đi lại bên ngoài Ba Lan và cuối cùng đem lại các học bổng và các vị trí giáo sư thỉnh giảng ở phương Tây. Ông viết nhiều về nghệ thuật và kiến ​​trúc châu Âu nhưng, không như Czesław Miłosz, ông đã chọn chống lại sự lưu vong.

Đầu những năm 1960, khi đang sống và làm việc tại Anh, lần đầu tiên tôi nghe đến Herbert: các bài thơ của ông được đọc trên đài Third Programme của BBC và được đăng trên tờ Modern Poetry in Translation, nơi mà nhà thơ người Anh Ted Hughes là một tinh thần sống động. Hughes đã tham dự một festival thơ ở Spoleto, Ý, nơi các tác phẩm của một thế hệ nhà thơ mới từ Ba Lan, Tiệp Khắc và Nam Tư đã gây ấn tượng với ông với sức mạnh của sự mặc khải. Được Hughes và nhà phê bình có ảnh hưởng Al Alvarez truyền bá trong các bản dịch đơn giản một cách có chủ đích, các tác phẩm của Herbert và các nhà thơ khác đằng sau Bức màn Sắt đã gây ra một cú sốc làm sống lại cái khung cảnh thơ ca Anh khá lờ đờ và khép kín thời gian đó.

Cái gây ấn tượng với độc giả phương Tây là sự thẳng thắn mà các nhà thơ này dám đề cập đến các vấn đề sống chết, một sự thẳng thắn thường đạt được thông qua các chiến lược gián tiếp mỉa mai. Đọc và giải mã đúng, tác phẩm của họ như được ém với sức mạnh của một lò xo cuộn. Và sức bền kéo đó dường như bắt nguồn từ lòng can đảm và sự chính trực của cá nhân họ, khi họ đứng lên vì sự thật của tầm nhìn cá nhân chống lại một học thuyết chính thống nguyên khối. Ở mức độ đơn giản nhất, họ đưa ra một bài học về việc làm thi sĩ có nghĩa là gì.

Sự chính trực ương ngạnh, phi anh hùng đặc trưng của cuộc sống của Herbert dưới chế độ Cộng sản cũng dệt sợi chỉ của mình vào trong thơ ông. Cho ngắn gọn, tôi sẽ gọi chủ đề này là cuộc sống trung thành (the faithful life). Cuộc sống trung thành không giống cuộc sống của đức tin (the life of faith): sự khác biệt giữa hai cuộc sống này có thể được gọi là trọng tâm đối với đạo đức của Herbert, nếu không phải vì thực tế là việc ưu tiên cuộc sống trung thành hơn cuộc sống đức tin và dựng nó thành một tôn chỉ – một tín điều đức tin của riêng nó – sẽ ngay lập tức khiến nó đủ điều kiện cho chính kiểu thẩm vấn hoài nghi mà Herbert rất chuyên.

Trong tác phẩm của Herbert có một số bài thơ dựa trên sự đối lập giữa, một mặt, sự thuần khiết (sự thuần khiết của lý thuyết, sự thuần khiết của học thuyết), mà ông gắn với cái thần thánh hay thiên thần, và mặt khác, cái ô uế, lộn xộn, cái người phàm. Nổi tiếng nhất trong số này là “Apollo và Marsyas.” Apollo, một vị thần và do đó không có cảm xúc con người, đã lột da sống satyr Marsyas, và phản ứng với tiếng hú đau đớn kéo dài của Marsyas bằng một cái rùng mình khó chịu. Apollo có thể đã thắng cuộc thi âm nhạc – Marsyas đang phải chịu số phận của kẻ thua cuộc – nhưng tiếng hú phát ra từ cổ họng Marsyas, dẫu thô sơ nếu tính là âm nhạc, lại thể hiện từng nguyên tử của tồn tại con người (tức là không giống thần thánh) bị phơi bày (tức là bị lột da) của chàng với cường độ hóa đá mà vị thần không thể đọ nổi.

Đây chỉ là một trong số nhiều bài thơ đứng về phía con người trong cuộc đấu không cân sức với thần thánh. Thế giới mà Chúa tạo ra, thế giới mang dấu ấn của lý trí thần thánh, có thể hoàn hảo trên lý thuyết nhưng khó có thể chịu đựng trong thực tế. Trong “Ở cổng thung lũng,” ngay cả thế giới bên kia hóa ra cũng khá khó chịu theo tiêu chuẩn con người. Như những người mới đến khám phá ra ở cổng thiên đường, không một kỷ vật nhỏ nhất nào của cuộc sống cũ được phép đi cùng họ; ngay cả trẻ sơ sinh cũng phải rời khỏi vòng tay mẹ, “bởi hóa ra/ chúng ta sẽ được cứu riêng từng người.” Thiên đường của Chúa hóa ra lại có nét giống kỳ lạ với Auschwitz.

Vấn đề của các hệ thống, đối với Herbert, là chúng là các hệ thống. Vấn đề của luật lệ là chúng là các luật lệ. Hãy cẩn thận với các thiên thần và các nhà điều hành khác của sự hoàn hảo.

Chủ nghĩa Marx, gần như không cần phải chỉ ra, mang đậm màu thuyết mạt thế của Cơ đốc giáo. Thế giới của chủ nghĩa cộng sản khi đạt được, nơi người ta hưởng theo nhu cầu, và nơi nhà nước (quyền lực trần thế) sẽ tàn lụi, là thiên đường trên trái đất theo nghĩa đen. Các báo cáo châm biếm của Herbert về thiên đường như thế cũng là các báo cáo về cuộc sống trong nhà nước của giai cấp công nhân. Ở thiên đường, vì các vật liệu trong tay là con người và do đó không hoàn hảo nên phải có những thỏa hiệp nhất định. Các vòng tròn sáng, các dàn hợp xướng thiên thần, v.v., đã biến mất; những gì mà rốt cuộc chúng ta có là một thế giới bên kia không khác mấy so với cuộc sống ở Ba Lan Cộng hòa Nhân dân (“Báo cáo từ thiên đường”).

Phong phú nhất trong các bài thơ về thế giới bên kia đến từ tập Tường thuật từ thành phố bị vây hãm (1983), tập thứ sáu trong chín tập thơ Herbert xuất bản khi còn sống. Trong “Những linh cảm mạt thế luận của ông Cogito,” ông Cogito, persona (mặt nạ) của nhà thơ, suy ngẫm về cuộc sống sau khi chết và về kiểu kháng cự mà ông có thể tạo ra khi đến lúc phải đối mặt với các thiên thần vô cảm, không máu và yêu cầu của họ rằng ông phải từ bỏ các giác quan con người mà qua đó ông đã tìm hiểu thế giới. Khứu giác, vị giác, thậm chí thính giác – ông sẽ sẵn sàng từ bỏ. Nhưng để giữ lại thị giác và xúc giác, ông sẵn sàng chịu đựng bất cứ gì, kể cả tra tấn.

          song ông sẽ bảo vệ đến cùng
          cảm giác tuyệt vời của đau đớn
          và một vài hình ảnh mờ nhạt
          trên đáy mắt cháy rụi

Ai biết được, ông nghĩ, có khi các thiên thần thẩm vấn cuối cùng sẽ mệt mỏi và bỏ cuộc, tuyên bố ông “không có khả năng/ phụng sự/ thiên đường,” và cho phép ông trở về trái đất.

Cũng giống như trường hợp Marsyas bị Apollo tra tấn, các thiên thần tin rằng họ toàn năng cũng như toàn tri; nhưng thực tế là cái kinh nghiệm nghiệm đau đớn nằm ngoài tầm hiểu biết của họ, cũng như việc đạt được sự không quyền lực là nằm ngoài khả năng của họ.

(Đáng chú ý là trong ngôi đền trên thiên đường quả thật có một vị thần cam tâm chịu đau khổ theo cách của con người, không có sự giải thoát, cho đến chết. Vị thần này, Jesus của Thiên Chúa giáo, không xuất hiện trong vũ trụ thơ của Herbert.)

Giống như các tấn công trước đó vào các học thuyết về khả năng hoàn hảo, “Những linh cảm mạt thế luận của ông Cogito” dùng cú xoắn dao của nghịch lý để lập luận cho quyền cảm thấy nỗi đau đớn. Nhưng trong bài thơ muộn này Herbert đã đi ra ngoài sự mỉa mai gọn ghẽ và sự hoàn hảo bóng bẩy của các tác phẩm trước đó như “Báo cáo từ thiên đường.” Những câu thơ cuối cùng của nó mở ra đến một thế giới “bên con đường cỏ rậm/ ở bờ của một biển trắng/ với cái hang của khởi đầu,” một thế giới kỳ lạ, tươi đẹp và ám ảnh như thế giới mà những người phàm chúng ta sống: một thế giới đến với chúng ta thông qua các giác quan; một thế giới mà chúng ta không thể quên được và không thể rời xa được, mặc dù chúng ta phải.

Có hàng chục bài thơ về ông Cogito do Herbert viết, xuất hiện qua nhiều tập thơ. Ông Cogito bắt đầu cuộc đời mình năm 1974 như một persona tự hạ thấp mình của nhà thơ, không khác lắm về tinh thần và phong cách so với các nhân vật hoạt hình người-đàn-ông-nhỏ vui tính nhưng bất hạnh mà chúng ta thấy trong điện ảnh Ba Lan và Séc những năm Chiến tranh Lạnh.

Rủi ro của việc đầu tư quá nhiều vào persona này – người đàn ông nhỏ được định nghĩa bởi sự không quyền lực và sự phụ thuộc vào sự mỉa mai, vũ khí của những kẻ không quyền lực – tôi đồ là đã rõ với Herbert ngay từ đầu. Một bài thơ văn xuôi từ năm 1961 (“Từ thần thoại”) chỉ ra mối nguy này. Bài thơ có hình thức là một lịch sử ngắn gọn về tôn giáo, trong ba giai đoạn. Ở giai đoạn thứ ba và cuối cùng – phi tôn giáo – người ta mang trong túi các bức tượng cầu của vị thần của sự mỉa mai, làm bằng muối. “Rồi quân man rợ đến. Chúng cũng rất coi trọng vị thần nhỏ của sự mỉa mai. Chúng nghiền nát nó dưới gót chân và rắc nó lên các món ăn.”

Vị thần nhỏ của sự mỉa mai, được các tín đồ bí mật tin là toàn năng, hóa ra lại bất lực trước quân man rợ. Tệ hơn thế: quân man rợ thích thú xơi ông ta, hoặc ít nhất dùng ông ta như một gia vị thích thú. Để diễn nôm phúng dụ này: kẻ mỉa mai có nguy cơ trượt vào một modus vivendi quỷ quyệt với các thế lực cầm quyền mà miễn là y ngầm đồng ý không xuất hiện sau mặt nạ hay các mặt nạ của mình, họ sẽ vờ như không thấy y “thực sự” là ai. Quá đủ cho sự mỉa mai, không chỉ như một chiến lược chính trị mà còn như một nơi trú ẩn đạo đức, một cách sống.

Nếu ông Cogito không muốn bị nghiền nát dưới gót chân của quân man rợ và bị dùng làm gia vị, nếu các bài thơ về ông Cogito không muốn chịu số phận thấy mình bị đem vào sách giáo khoa, thì ông Cogito phải hơn cả ông Zbigniew Herbert – homme moyen sensuel, nhà ghép vần và công dân Ba Lan – nhìn qua lăng kính thu nhỏ và bóp méo của sự mỉa mai.

Ở một khía cạnh quan trọng, ông Cogito cũng giống như Don Quixote, một sáng tạo hư cấu mà người sáng tạo ra chỉ dần dần nhận ra được sức nặng thơ ca mà nó có thể mang. Một vài trong số các bài thơ đầu về ông Cogito rất tầm phào và dễ quên; song “Thông điệp của ông Cogito” là một trong những bài thơ vĩ đại của thế kỷ hai mươi.

Nhan đề không hoàn toàn trong suốt này mời gọi người ta đọc bài thơ như một envoi gửi đến cả tập hợp các bài thơ về ông Cogito và gửi đến bản thân thi sĩ ẩn sau persona đó, rốt cuộc đã cởi mặt nạ ra và nói mà không có sự mỉa mai. Bài thơ có thể được đọc riêng lẻ, và ngay cả đọc riêng lẻ, sức mạnh của nó là không thể phủ nhận; nhưng để đạt đến tác động thích đáng nó cần được đọc với tư cách là tác phẩm cuối trong một loạt tác phẩm về ông Cogito, nhìn lại các đại diện của mình và cởi bỏ những lớp ngụy trang mỉa mai của chúng hòng nói ra chân lý.

Đọc nó theo cách này, như một mệnh lệnh – quả thực là một mệnh lệnh – cho bản thân phải kiên trì trong cuộc sống trung thành ngay cả khi không có bất kỳ một đức tin đáng tin cậy nào, người ta phải cảm thấy ấn tượng trước sự hùng tráng về mặt tu từ và sự kịch liệt về mặt đạo đức của nó, không phải những phẩm chất mà người ta thường gắn với Herbert, mà là những tiềm năng mà người ta có thể đã cảm nhận được ngay từ đầu, sau tất cả sự mỉa mai.

Hối tiếc một cuộc đời sống không trọn vẹn, và nghi ngờ rằng công trình đạt được của mình đã không bù đắp được thất bại đó, trở thành chủ đề nhức nhối trong thơ về cuối của Herbert. Tất nhiên đế chế Xô Viết xám xịt đã khiến bất kỳ thần dân nào của nó khó mà sống một cuộc đời trọn vẹn. Nhưng với một kẻ tự nghi hoặc hay cằn nhằn và xán lạn như Herbert, đổ lỗi từ bản thân sang lịch sử không phải một chiến lược có thể chấp nhận được về đạo đức. Trong “Tại sao các tác giả cổ điển” Thucydides không tìm cớ cho thất bại của mình với tư cách một vị tướng. Ông đối mặt với các quan tòa, trình ra sự thật, chấp nhận hình phạt mà không càm ràm.

Phán quyết của Herbert về cuộc đời mình đến trong một cặp bài thơ năm 1983, “Ông Cogito và trí tưởng tượng” và “Gửi Ryszard Krynicki – một lá thư,” trong đó, tối quan trọng, ông xác định đức hạnh chính của mình với tư cách một tồn tại đạo đức – cụ thể là tầm nhìn vững vàng, không bị lừa dối của mình về thế giới – cũng là hạn chế chính của ông với tư cách một nhà thơ. “Trí tưởng tượng của ông Cogito/ có chuyển động của một con lắc/ nó đi với sự chính xác/ từ khổ đau đến khổ đau.” Vì điều này ông Cogito “sẽ được xếp/ vào các loài minores.” Như vậy, điều đầu tiên của cáo trạng: một trí tưởng tượng, một cái nhìn về thế giới, bị hạn chế, đơn điệu. Điều thứ hai: “trong thơ chúng ta Ryszard có quá ít niềm vui,” ông viết cho bạn mình Krynicki, “quá ít hoàng hôn rực rỡ gương soi vòng hoa của sự ngây ngất.” Hay, như ông viết trong một bài thơ còn cá nhân hơn thế nữa, “ký ức quá lớn/ và trái tim quá nhỏ” (“Một trái tim nhỏ”).

Tất nhiên, có sự mỉa mai đang hoạt động ở đây, một sự mỉa mai cứu rỗi. Bài thơ chế giễu ông Cogito vì giới hạn mình vào những trùng ngôn – “con chim là con chim” – cũng ngầm mời người ta đặt câu hỏi, Nhưng còn ai ngoài ông Cogito, ai ngoài Herbert, nói vào năm 1956: “nô lệ là nô lệ”?

Nhưng sự trớ trêu có thể đến bọc trong sự trớ trêu. Quyết định trở thành một nhà mỉa mai cả đời, một cách mỉa mai, có thể phản tác dụng; hay, nhớ lại nhân vật mở rộng ra trong “Một trái tim nhỏ,” viên đạn mà anh bắn ra hàng thập kỷ trước có thể bay vòng quanh thế giới và bắn trúng lưng anh. Cái cảm giác đạo đức, thô sơ nhưng không thể sai, mà anh vờ coi khinh nhưng thực ra khẳng định khi, hồi những năm 1950, anh viết bài “Cái gõ”:

          trí tưởng tượng của tôi
          là một tấm ván […]
          tôi gõ ván
          và nó nhắc tôi
          bài thơ khô khan của nhà đạo đức
          phải – phải
          không – không

bắt đầu nghe mệt vào những năm 1980. Một đời chỉ gõ vào tấm ván cũ thì có nghĩa gì?

Đây là câu hỏi bi quan mà Herbert, trong những năm cuối đời, đặt ra từ bài thơ này đến bài thơ khác khi ông nhìn lại cuộc đời mình. Nhưng đó có phải là câu hỏi đúng để hỏi hay không? Có những cách khác để hiểu tại sao, suy ngẫm về những thập niên hậu chiến từ góc nhìn của những năm 1980, một nhà thơ như Herbert lại cảm thấy thất vọng và thất bại. Một ví dụ: chừng nào chế độ nô lệ còn là chế độ nô lệ – trong những năm ảm đạm của nền cai trị Xô Viết – ông Cogito còn biết lối (và biết ơn gọi của mình). Nhưng khi chế độ nô lệ chuyển hóa thành các hình thức phục dịch tinh vi hơn, như trong thời kỳ cải cách ngắn ngủi đầu những năm 1970, khi các cửa hàng bỗng chất đầy hàng hóa nhập khẩu trả bằng tiền vay – một thời kỳ báo trước sự gia nhập thế giới tiêu dùng toàn cầu hóa sau năm 1989 của Ba Lan – thì bộ giáp sự chắc chắn về mặt đạo đức của ông Cogito đã phụ ông. Trong bài thơ nhan đề “Con quái vật của ông Cogito” ông đã thấy trước thất bại này. Con quái vật mà ông dũng cảm xông ra để đối đầu lại “vượt ngoài định nghĩa”:

          nó giống như một áp thấp lớn
          lan rộng khắp đất nước

          không thể chọc thủng
          bằng một cây bút
          một cuộc tranh luận
          một ngọn thương

Còn một phẩm chất nữa của con quái vật khó miêu tả mà ông Cogito không nhắc đến: nó đã vượt qua, hay ít nhất với qua được thiện và ác, và do đó nằm ngoài tầm với của câu trả lời có/không của nhà đạo đức. Đối với con quái vật là là trên mặt đất, mọi thứ đều tốt theo nghĩa mọi thứ đều là hàng hóa, đồ tiêu dùng, bao gồm cả các hiện vật nhỏ bằng muối của nhà mỉa mai.

Những năm cuối trong cuộc đời Herbert không mấy vui vẻ. Sức khỏe ông suy yếu. Ông cần được chăm sóc tâm thần nhưng ông thường chống cự. Ông vẫn tiếp tục viết và xuất bản, nhưng thơ của ông trong những năm cuối đời thiếu đi sự cấp bách trước đây, sự căng thẳng về cú pháp- nhạc tính trước đây. Nhận thức về bút lực suy yếu của mình chắc hẳn đã góp phần vào sự sầu não của ông. Ông qua đời ngày 28 tháng 7 năm 1998 ở tuổi bảy mươi ba.

Nếu về cuối đời Herbert cảm thấy mình đã dành quá nhiều thời gian cho nghệ thuật, đã sống quá ít, và nếu hơn thế nữa ông cảm thấy nghệ thuật của mình quá hẹp, không phải lúc nào cũng theo kịp thách thức của thời đại, thì đó là một câu chuyện mà người ta có thể bán tín bán nghi. Zbigniew Herbert đích thực được tạo nên bởi một khối thơ trải dài qua bốn thập niên đầy thách thức của lịch sử châu Âu hiện đại. Phản ứng của ông đối với những thách thức ấy là ngoan cố, trung thành một cách đơn điệu với con người – không phải một lý tưởng cổ điển, vượt thời gian về con người, mà là con người xương thịt, dò dẫm trong bóng tối băng qua một vùng đất rải xương cốt của những con người dũng cảm khác, những người bảo vệ đức tin: Gilgamesh Hector Roland.

J. M. Coetzee, “Introduction,” in Zbigniew Herbert, Selected Poems, selected and introduced by J. M. Coetzee and Alissa Valles (Penguin, 2024).

Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Leave a comment

Information

This entry was posted on January 7, 2025 by in Văn chương & Phê bình and tagged .

Categories

Archives

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

Design a site like this with WordPress.com
Get started